NGẪU HỨNG ĐỌC THƠ (phần II)
TRẦN XUÂN ANNGẪU HỨNG ĐỌC THƠ
Phê bình thơ
PHẦN II
tiếp theo phần I:
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HCM.
2005
Tp. HCM., 22 – 23 & 27.08.2003
(25 – 26 & 30.07. Quý mùi HB.3)
Thành phố Hồ Chí Minh
08 giờ sáng
ngày mười một tháng chín
hai không không tư
(hai mươi bảy tháng bảy Giáp thân
công nguyên Hoà Bình năm thứ tư)
Mười tám tháng mười một
Hai không không tư
(mùng bảy tháng mười
Giáp thân HB4)
_________________________
Bài thứ sáu
ĐỌC THƠ VÕ NGUYÊN
1
Trong bài tựa cho tập truyện Bản hoà âm thôn dã (1), giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: “Những thiên truyện của Võ Nguyên thật dễ mến. Qua những thiên truyện ấy, có lẽ tác giả muốn phát hiện ở những con người Việt Nam bình dị nỗi khát khao tình thương yêu, hạnh phúc, điều thiện và lẽ công bằng, trong cuộc sống còn nhiều thương tích chiến tranh, và con người thì còn nhiều khổ đau vất vả” (2). Ở một đoạn khác, GS. tiếp tục nhận định về tập truyện ấy: “Căn cứ vào những nét đặc sắc ở một số truyện của Võ Nguyên, tôi cho rằng Võ là cây bút văn xuôi có thiên hướng trữ tình. Anh muốn phát hiện chất thơ ẩn náu trong cái bình dị đời thường, ở những số phận ít ai biết đến, giữa cái hối hả, quyết liệt của cuộc sống vì miếng cơm manh áo hằng ngày” (2).
“Thiên hướng trữ tình”, “chất thơ” của một nhà văn, vốn đã khẳng định được ít nhiều tên tuổi mình trên báo chí và một số giải thưởng (*), là một nét của tâm hồn Võ Nguyên. Nét đặc sắc ấy, khi viết một cách tinh tế về anh như thế, GS. Nguyễn Đăng Mạnh không đề cập đến những bài thơ được anh sáng tác song song và đăng báo. Có lẽ nguyên nhân là do truyện ngắn Võ Nguyên trội hơn rất nhiều so với thơ Võ Nguyên, mặc dù thơ anh không phải không có những câu, những bài có thể thuộc vào loại đọc rồi là khó quên.
Nếu văn xuôi Võ Nguyên còn có thêm một nét đáng kể nữa, “truyện không có gì đáng kể mà sao rất có duyên”, nhờ nghệ thuật viết truyện và nhờ Võ Nguyên biết yêu quý những gì rất bình dị giữa cuộc đời bình thường này, cộng với “ý nghĩa nhân bản sâu sắc” trong một vài truyện (3). Tôi nghĩ Võ Nguyên có tiếp thu André Gide (1869 – 1951) nhưng lại trái ngược chiều về lập trường với André Gide (sau 1936). Đó là một nhà văn Pháp nổi tiếng với tiểu thuyết có tên như tập truyện đầu tay của Võ Nguyên (La symphonie pastorale, 1919 (**)) và tiểu thuyết khác, cũng đã được dịch ra tiếng Việt là Dưỡng chất trần gian (Les nourritures terrestres, 1897 (**)).
Điều đó, quả thật, cũng thể hiện ở thơ của anh. Khác với nhiều nhà thơ viết văn hay nhiều nhà văn làm thơ khác, người văn và người thơ Võ Nguyên đúng là một tạng chất. Tuy nhiên, ở hai loại hình văn chương này, mức độ thành công (văn) hoặc chưa thành công nhiều (thơ) ở Võ Nguyên, còn được quyết định bởi kĩ thuật đối với mỗi loại.
Nếu hầu hết 19 truyện ngắn Võ Nguyên đã tinh tuyển trong hai tập truyện, cho thấy một “tay nghề” truyện ngắn già dặn, ở một số truyện phải nói là tác giả đã đạt đến mức lão luyện, thì ở thơ, trong tập Lời cho người hát chia tay (1), kĩ thuật hầu như không thành vấn đề quan tâm đối với Võ Nguyên – hình như anh chủ ý làm thơ một cách hồn nhiên, có bài như thể đồng dao bâng quơ, nhưng rất tiếc không phải là bâng quơ của điêu luyện. Tuy vậy, nhờ nội lực của chất nhà văn trong anh, nên có bài rất khó quên.
Nói như vậy, có phải tôi có cảm giác như GS. Nguyễn Đăng Mạnh không? Uống qua hết những chén rượu truyện ngắn đầu nồi (rượu nước nhất) tuyệt ngon của Võ Nguyên, lại uống thêm vài chén rượu nước nhì, nước ba là thơ ca Võ Nguyên, đâm ra thơ ca ấy dở mất, cho dù thực chất rượu nhì, rượu ba được chắt lọc từ tâm hồn của anh vốn cũng khá thơm ngon, nồng đậm, dịu ngọt – chất ngọt đích thực của rượu gạo.
2
Nhưng cũng phải đọc lên ngay, để thấy thơ thế này có lẽ nào không phải là thơ có thể đọng mãi trong trí nhớ và trái tim người đọc, trước hết là vì vẻ đẹp của ngôn từ (chứ không phải nhờ độ sâu của ý tưởng)? Đây là bài Hoàng hoa (4) của Võ Nguyên:
Xưa ai ngậm ngải tìm trầm
Để người ngậm đắng bao năm rối bời
Hồ đêm lặng đến chơi vơi
Đáy sâu ngưng đọng sóng đời lung linh
Trầm xưa mất thời gian xanh
Hoàng hoa ngả bóng sang cành thiên thu.
“Ngậm ngải tìm trầm” không phải là giữ im trên đầu lưỡi một thứ ngải thiêng nào đó với niềm tin vào dược liệu cộng với niềm mê tín vào thần linh để có đủ sức chịu đựng gian khổ ở vùng sơn lam chướng khí, có đủ khả năng chống chọi với thú dữ suốt bao tháng ngày vào rừng sâu tìm kiếm một loại hương liệu quý giá (thứ hương liệu hình thành được bởi loài cây dó, sau một quá trình ít ra là suốt mấy mươi năm xanh lá, hấp thu được tinh chất từ gió ngàn, mây núi, suối nguồn, đất rừng để tinh luyện, cô đặc lại). Trong bài Hoàng hoa, đó là sự tịnh khẩu, trầm tư trong lao tâm khổ tứ để tìm kiếm sự kết tinh ngay chính trong tâm hồn, trí tuệ của người đàn ông nào đó.
Hoa cúc vàng phải chăng còn có tên hoàng hoa? Đó không phải là hoa mai vàng hay hoa lan vàng hoặc một loại hoa có sắc vàng nào khác. Tôi bỗng ngậm ngùi khi ánh mắt một lần nữa chạm đến hai câu kết. Lá xanh đã úa, đã rụng như “thời gian xanh”, thì Võ Nguyên cần chi miêu tả nữa, ta cũng thấy đóa cúc vàng kia tiều tụy đến mức nào, khi “hoàng hoa ngả bóng sang cành thiên thu” miên viễn!
Phải chăng đó là vẻ đẹp cổ điển của Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều với những ẩn dụ mới do Võ Nguyên sáng tạo?
Suốt cả tập thơ, cho dù không viết nhiều lần hai chữ thời gian, nhưng Võ Nguyên cũng cho ta cảm được ý niệm ấy theo cách của anh: “Thời gian khoác áo sa mờ / Tưởng là thật hoá ra mơ một thời” (5); “… Cũng là quá khứ dẫu vừa quay lưng / Thời gian là thế em có thấy không” (6).
Ý niệm thời gian không có gì rõ rệt hơn ở người con gái bị thiên hạ gọi là lỡ thì (lỡ thời), thời xuân sắc đã trôi qua, hạnh phúc lứa đôi không hề gõ cửa, hoặc do duyên cớ nào đó, đã để lỡ mất cơ duyên, và rồi không còn ai gõ cửa nữa khi đã quá muộn mằn. Đây không phải là vấn đề mới, mà thuộc về vấn đề muôn thuở, vả lại trong kho tàng ca dao hầu như không thiếu những bài về bi kịch này của phụ nữ. Nhưng trong cuộc chiến tranh khốc liệt, lâu dài vừa qua, con số thống kê bi kịch này là thuộc loại bí mật quốc phòng; và một trong những nỗi đau hậu chiến còn là nỗi niềm này. Không phải ngẫu nhiên Bến không chồng, tên một tác phẩm của Dương Hướng, được nhiều người sử dụng để nói về thời gian với nỗi niềm Võ Nguyên đã viết thành thơ: Lời người lỡ thì (7).
“Quê em / Nắng tháng mười cây cỏ xác xơ / Và rưng rức ngực hồng bốc cháy / Tung cát bụi mịt mờ bờ bãi / Gió lồng lên như đàn ngựa phá chuồng // Tháng năm về hờ hững trôi êm / Em đứng đợi ngàn trùng sóng gió / Tim khép mở bóng hình mờ tỏ / Bao lâu rồi ngọn gió vỗ triều lên // Gió bốn mùa thổi thốc qua đời em / Cứ lồng lộng bốn mùa gió thổi / Sợ từng đêm trở mình con cú gọi / Sợ ngoài kia trăng vỡ rụng tơi bời…”.
Hai chữ “ngực hồng” của Võ Nguyên chính là “dấu hiệu” để người đọc nắm bắt được mạch chính của bài thơ, nếu không kể đầu đề. Tất cả đều được anh viết bằng ẩn dụ, ẩn dụ gió lồng lộng và gió thông thốc suốt bốn mùa vẫn là hình ảnh quán xuyến suốt bài. Nhưng làm sao ta không cảm nhận được nỗi đau như thể bùng cháy, dậy sóng, hoặc nỗi đau âm ỉ trong tâm trạng hoảng hốt, lo sợ trước tuổi già cô quạnh sắp ập đến. Có gì tàn nhẫn lắm không khi miêu tả tâm lí người con gái lỡ thì như thế? Người phụ nữ cao quý sao lại quá nhiều thú tính, sao hoang dã đến mức ấy? Hay tận chiều sâu của sự miêu tả ấy là ý nghĩa nhân bản, rất con người? Khát tình và khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong tuyệt vọng, quả thật, tôi không ngờ lại bi thiết, quằn quại đến thế! Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm trong văn học cổ điển nước ta, ai đó đã viết, ấy là “tiếng thét kêu đòi hạnh phúc đôi lứa”, nhưng hình như ai đó cũng đã tránh né gọi đích danh của một trong những khía cạnh hạnh phúc là nỗi niềm tâm sinh lí “khát tình”. Dẫu sao, tôi vẫn thấy Võ Nguyên đã dùng hơi đậm thủ pháp cường điệu, phóng đại.
Mặc dù với biện pháp nghệ thuật không phải tả chân mà là ẩn dụ, có thể bài Lời người lỡ thì này cũng phải xếp vào kho “bí mật quốc phòng”, nếu Võ Nguyên không viết dưới ánh sáng của thiện năng và mĩ học, để bài thơ ấy thành một chỉnh thể nghệ thuật. May thay, cây bút của nhà giáo Võ Nguyên không xô con người (đối tượng trữ tình – khách thể tự biểu hiện, và người đọc) xuống vực thẳm; rõ ràng anh đã quyết níu giữ lại con người bên bờ vực thẳm ấy.
Về ý niệm ngày tháng trôi qua và những gì mất đi, những gì còn lại, Võ Nguyên có thêm một bài thơ thể bốn chữ, Vó thời gian (8). “Bóng câu qua cửa sổ”, thời gian được biểu trưng bằng vó ngựa phi nhanh, không phải là một hình ảnh mới. Cách kết cấu chủ yếu bằng những hai dòng thơ sóng đôi hoặc hai cặp câu sóng đôi, chứa đựng hai hình ảnh đối lập về chiều kích (con kiến – ngọn đồi; gang tấc – hư vô; ngọn bút – cơ đồ…) hoặc tương đồng về ý nghĩa (xác ve sầu – con ngựa già…), Võ Nguyên để cho hình ảnh tự biểu đạt được cảm nghĩ của anh về kiếp người ngắn ngủi, bé mọn giữa vô tận thời gian, mênh mông không gian, về cái chết như một lẽ tất yếu của quy luật sinh – tử, thành – hoại… Triết lí ấy không phải mới, nhưng cũng không bao giờ cũ. Có một điều là Võ Nguyên vẽ lại khung cảnh khiến anh nẩy sinh mối suy tư và cảm xúc lại bằng những nét mờ nhoà lung linh không rõ rệt.
“Một ngày nắng gió / Em đã đi rồi / Ai đem nỗi nhớ / Treo chi giữa đời // Dã tràng xe cát / Hoang phí một thời / Một con kiến gió / Chết bên chân đồi // Phù trần gang tấc / Bay vào hư vô / Nào ai nghiêng bút / Làm nên cơ đồ //Trên cành phượng vĩ / Xác con ve sầu / Bên đường thiên lí / Một con ngựa già // Tìm đâu vĩnh cửu / Cát bụi hợp tan / Khổ đau kim cổ / Vơi đầy nhân gian // Lửng lơ hạnh phúc / Trêu chi cõi đời / Tôi mang nỗi nhớ / Về cho một người”.
“Em đã đi rồi”! “Em” là ai vậy? Và “đi” về đâu? “Nỗi nhớ” kia, sao lại “treo chi giữa đời”? “Ai” là người “treo” nỗi nhớ ấy? Tại sao “tôi mang nỗi nhớ, về cho một người”? Tôi nghĩ, Võ Nguyên đã tiễn đưa một người em trai hoặc em gái, cũng có thể là một học trò cũ về nơi miên viễn, và chính người thơ đã tự nguyện nhận lấy “nỗi nhớ” để mang về cho người yêu của người vừa được chôn cất. Có thể đó là nỗi nhớ trăn trối của người vừa được đặt xuống đáy huyệt, nhưng có lẽ đúng hơn là phải thấy thêm, nỗi nhớ trăn trối kia, người đã qua đời đó cũng không dám gửi lại cho người yêu còn sống mà hôm an táng ấy lại vắng mặt.
Bài thơ phúng điếu này không phải là tiếng khóc thống thiết, tức tưởi hoặc da diết mà chỉ là cảm nghĩ ngậm ngùi, trầm lắng, mênh mang. Có vậy thôi, sao bâng khuâng, xót xa đến thế, và xao xuyến lòng ta lạ lùng.
Có thể nói Một chuyến đi về (9) của Võ Nguyên cũng thuộc về cảm hứng thời gian, nhưng lại là thời gian lịch sử. Đó là một “chuyến đi” của anh, từ Miền Nam, “về” với nguồn cội, Đất Tổ – Đền Hùng: “Con về Đất Tổ chiều đông / Hơi se sắt lạnh từ trong sa mù / Chợt rơi vào cõi thiên thu / Theo con Chim Lạc bay từ hồng hoang…”.
Đây là một bài thơ rất cảm động. Nhưng để thành công với đề tài đã thuộc loại truyền thống bốn nghìn năm sâu thẳm này, thật không dễ dàng. Trước Võ Nguyên, đã có hàng vạn bài thơ về nguồn như thế. Hẳn Võ Nguyên cũng thừa biết khó khăn ấy, tuy nhiên, vẫn không thể không bày tỏ một cảm xúc thiêng liêng đã chiếm lĩnh cả tâm hồn anh, anh không muốn để quên đi, để trôi mất niềm thiêng ấy, nên đã ghi lại thành thơ, như một chút lòng thành.
Thời gian, với Võ Nguyên, đã được anh cảm nhận, suy tư trong các không – thời gian như thế.
3
Một trong những đề tài cũng rất khó thành công khác, mặc dù cảm xúc về nó là không cách nào thiếu vắng đối với người thơ và người thơ khó kìm nén nhất. Đó là tình yêu đương.
Ngoài những bài mà hầu hết là lời chia tay cuối một cuộc tình không thể đi trọn, Võ Nguyên còn có một suy nghĩ hơn là một cảm xúc về yêu đương: Vệt sáng (10). Anh không bày tỏ những rung cảm bằng ngôn từ trữ tình, nhạc điệu biểu cảm, anh viết về yêu đương bằng thi pháp mộc, để các hình ảnh tự biểu hiện điều anh ngẫm nghĩ.
“Em như gương dưới nắng / Ánh vệt sáng lên tường / Thoáng hiện rồi thoáng mất // Anh nửa đời tìm bắt / Vệt sáng tròn xoay / Chiếc gương lại lắc / Chỉ còn bức tường rêu phong”.
Tình yêu đương chỉ là một thứ ảo ảnh sao? Không, nhưng người yêu dấu đích thực chỉ là ảo ảnh. Đó là cách nói về một nàng thơ không bao giờ có thật với người thơ, bởi vì anh ta mãi mãi khát vọng sự tuyệt đối, mà không bao giờ có nàng thơ nào là tuyệt đối đối với một tâm thức nung nấu ý chí sáng tạo và mãi mãi còn đam mê sáng tạo.
Đó là tình yêu thơ ca hay tình yêu đôi lứa? Và đây, câu hỏi ấy lại được lặp lại thêm một lần nữa, khi đọc bài thơ tứ tuyệt phóng khoáng về niêm luật có tên rất ngắn, chỉ một chữ: Tan (11). Xin đừng chê tứ tuyệt của Võ Nguyên quá cũ kĩ, sáo mòn, mặc dù mới đọc qua, quả đúng là cũ kĩ, sáo mòn thật.
Siết vòng tay và tan trong nhau
Tan vào vũ trụ với ngàn sau
Ngàn sau xa lắc, ai còn nhớ
Nếu chẳng bao giờ tan trong nhau.
Đây là tan hoà, sự trộn lẫn, hỗn hợp giữa hai thực thể hoặc nhiều thực thể đến mức tuyệt đối, như rượu pha với chanh hoặc như một thứ rượu đa vị (thập cẩm, cocktail), không còn thực thể nào giữ được bản chất của nó. Rhum pha với mươi giọt nước chanh vắt, rhum không còn nguyên chất rhum, chanh không còn nguyên chất chanh, mà thành một thực thể mới không thể phân chia lại được, ấy là rượu rhum-chanh. Mười hoặc mười lăm thứ rượu pha vào nhau, không như chè thập cẩm (nho, lê, táo, chuối, mơ… mỗi thứ hầu như vẫn còn nguyên là nó), rượu đa vị (thập cẩm) là kết quả của một sự đánh mất bản chất từng thứ rượu để trở thành thứ rượu mới với hương vị mới. Do đó, tan ở đây là sự hoà hợp tuyệt đối để tạo nên một thực thể mới chứ không phải là tiêu tan, mất hẳn! Nhưng hoà hợp tuyệt đối này cũng không phải là sự tập hợp. Trong tập hợp, mỗi thành tố, mỗi đơn vị vẫn còn là chính nó nguyên vẹn, có thể với một trật tự nhất định, như một tập hợp thơ (tuyển tập thơ của nhiều tác giả) chẳng hạn.
Nhưng ở bài Tan này, phải hiểu chữ tan bằng nghĩa cụ thể trong ngữ cảnh nghệ thuật cụ thể.
Tôi hiểu Võ Nguyên muốn nói đến tình dục vợ chồng trong quan niệm âm dương giao hợp để truyền đời, góp phần nối tiếp sự trường tồn của một họ tộc, một dân tộc và rộng hơn, đó là sự trường tồn nhân loại. Nhưng đọc lại lần nữa, thấy rằng, có lẽ Võ Nguyên chỉ giới hạn trong phạm vi họ tộc và chỉ trong phạm vi ấy. Với Võ Nguyên và cách nói cường điệu của anh, âm dương giao hợp (tình dục vợ chồng) là một động tác hoà hợp tuyệt đối giữa hai thực thể nam nữ và không những thế, còn là sự hoà hợp với cả Đất lẫn Trời, hiện tại với vĩnh cửu ngàn sau. Anh không nói đến quá khứ nghìn xưa, nhưng ta hiểu có sự hiện diện của quá khứ nghìn xưa ấy trong khoảnh khắc giao hợp âm dương (tình dục vợ chồng, nõn – nường, linga – yoni) ấy. Đây cũng là động tác nguyên sơ trong các dịp đón xuân mới, mùa quan họ, mùa đu cây, lễ tế thần nông (nhằm góp phần kích thích sự thụ phấn, giao phối trong trồng trọt, chăn nuôi) thuở xa xưa của người Việt và người Đông Nam Á. Thạp đồng Đào Thịnh, một số mảng tranh khắc gỗ Đình Bảng là những tác phẩm nghệ thuật biểu đạt quan niệm triết lí về tình-dục-thiêng-liêng này (hoàn toàn xa lạ với quan niệm, hành vi tình dục dung tục, bừa bãi…).
Ở trường hợp này, cũng như đối với mọi bài thơ, trang truyện khác, có thể tôi hiểu bài Tan theo thẩm thức của riêng tôi. Trong thẩm thức riêng của tôi ấy, có cả mọi vốn liếng văn hoá, tri thức, kinh nghiệm và tâm hồn lẫn thể chất của riêng tôi.
Ồ, nhà giáo Võ Nguyên nào có ngại gì khi thể hiện lên trang giấy cảm xúc về sinh lí tình dục mang chiều sâu văn hoá học. Nhưng, cẩn trọng chút nào, ta hãy đọc lại Tan của Võ Nguyên, để thấy Võ Nguyên thanh khiết hơn Hồ Xuân Hương và khác Hồ Xuân Hương một trời một vực, mặc dù sự thành công về nghệ thuật ngôn từ thi ca của anh vẫn còn thua kém rất nhiều, nếu so sánh với sự thành công trong khía cạnh ngôn từ của “Bà chúa thơ Nôm”, xét trên quan điểm đồng đại (so sánh với các nhà thơ cùng thời của mỗi thời đại).
4
Võ Nguyên là một nhà văn, đó là điều hiển nhiên. Nhưng thơ ca của anh qua tập Lời cho người hát chia tay chưa đủ để khẳng định Võ Nguyên còn là một nhà thơ nữa. Võ Nguyên là một nhà văn đích thực, anh còn sống hết lòng với thơ ca, có sáng tác thơ ca, nhưng anh cũng chưa phải nhà thơ đúng nghĩa – có người bảo thế.
Theo sự nghiêm ngặt và cái gọi là “tiêu chí” hiện tại là vậy.
Nhưng Bà Huyện Thanh Quan đâu phải là một nhà thơ có nhiều bài thơ lưu truyền! Rõ ràng hơn, Nguyễn Nhược Pháp với tập Ngày xưa (***) mỏng mảnh, chỉ vỏn vẹn 10 bài thơ (tôi viết bằng chữ: mười, chỉ vỏn vẹn mười bài thơ), có ai không gọi Nguyễn Nhược Pháp là nhà thơ? Trường hợp T. T. Kh., tuy còn là một bí ẩn chưa có đáp số, cũng chỉ đăng báo bốn (04) bài thơ, đâu nhiều nhặn gì, nhưng T. T. Kh. vẫn như ngôi sao sáng, cho dù chợt hiện rồi mất hút. Có ai không gọi T. T. Kh. là nhà thơ? Dẫu vậy, có người vẫn nghĩ Võ Nguyên đích thực là nhà văn chứ chưa phải là nhà thơ. Những người ấy quá nghiêm ngặt như sự nghiêm ngặt và cái gọi là “tiêu chí” hiện tại chăng?
Hỡi thằng tôi, có phải thằng tôi cũng nghiêm ngặt? Và vớ vẩn nữa, khi đặt ra vấn đề vớ vẩn như thế!
Ngẫm lại, thấy ít người gọi Nguyên Hồng (tác giả Bỉ Võ, Những ngày thơ ấu, Cửa biển…) là nhà thơ, tuy nhà văn đã sừng sững trong văn học sử này có nhiều bài thơ hay. Tôi nghĩ, Võ Nguyên cũng thuộc vào trường hợp của nhà văn Nguyên Hồng, với tầm cỡ khiêm tốn hơn.
Võ Nguyên là một trong vài ngôi sao sáng nhất ở tỉnh Bình Thuận, nhưng chưa thật sáng trên khắp cả nước, tuy có những truyện ngắn không thua kém gì các nhà văn hiện đại thuộc loại xuất sắc nhất nước.
5
“Võ Nguyên thân mến,
Bỗng dưng mình muốn viết một lá thư, gửi ra Phan Thiết để Võ Nguyên đọc và cho ý kiến.
Mình nói ngay nhé! Chỗ bạn bè thân thiết với nhau, bên cạnh những thuận lợi, lại có những cấn cái rất khó. Trong trường hợp như Võ Nguyên và mình, người ta hoặc là quá nể nang nhau, quá khen ngợi nhau, hoặc quá nghiêm ngặt với nhau. Có lẽ mình thuộc loại nghiêm ngặt chăng? Nghiêm ngặt để giữ thể cách cho Võ Nguyên và cả cho bạn của Võ Nguyên là mình chăng?
Nhưng trên tất cả mọi điều là tình thân bạn bè giữa Võ Nguyên và mình.
Chúng ta quen nhau, rồi thân thiết với nhau từ bao giờ nhỉ?
Không phải thoáng chốc, mà từ năm học 1973 – 1974 kia đấy. Ngày đó, chúng ta cùng chung một lớp ở Trường Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Tiếp đến, chúng ta lại cùng chung với nhau một lớp ngữ văn (1974 – 1978) ở Đại học Sư phạm Huế. Tốt nghiệp, một vào xứ biển Thuận Hải (Bình Thuận – Ninh Thuận), một vào miền núi Lâm Đồng… Mười mấy năm gần đây, từ ngày mình vào TP. HCM., Võ Nguyên và mình lại có nhiều dịp gặp gỡ nhau.
Tình thân, lại là tình thân lâu dài, mới là điều đáng nói.
Tuy vậy, đây là chuyện văn chương chữ nghĩa, nghiêm ngặt là điều không đúng, nhưng nghiêm túc lại là vấn đề đâu phải không cần thiết. Phải vậy không, Võ Nguyên thân mến?
Vả lại, bài viết của mình về tập thơ Lời cho người hát chia tay của Võ Nguyên cũng chỉ là những điều mình chân thành cảm nghĩ về lĩnh vực thứ yếu của Võ Nguyên mà thôi. Dẫu sao, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm cũng đã trang trọng đề tựa cho tập thơ ấy.
Lĩnh vực chính yếu của Võ Nguyên vẫn là văn xuôi. Thầy Nguyễn Đăng Mạnh, giáo sư văn chương đồng thời cũng là nhà lí luận phê bình văn học tên tuổi, đã làm việc đó, cho dù mới chỉ qua bài tựa “Vài ý nghĩ về tập truyện của Võ Nguyên” – tập truyện đầu tay. Một số giải thưởng và bài viết trên các báo, tạp chí cũng góp phần khẳng định những đặc sắc của truyện ngắn Võ Nguyên.
Tình thân, lại là tình thân lâu bền, mới là điều đáng nói. Và không chỉ thế, chúng ta lại có cả tình văn nghệ chân thành nữa; và văn nghệ lại là điều tâm huyết, chẳng “phê bình” nhau mà được sao? Cần phải “phê bình” đến mức “tận tình” mới thật là thân thiết!
Đùa … một cách nghiêm túc đấy nhé!
Võ Nguyên thân mến,
Mình kết thúc bài viết về tập thơ Lời cho người hát chia tay của Võ Nguyên bằng lá thư này, như một cách khẳng định những gì mình viết trong bài là hết sức nghiêm túc. Nếu có chút nào nghiêm ngặt, cũng chẳng sao, phải không Võ Nguyên?
Gửi đến Võ Nguyên lời chúc, niềm hi vọng thành công về những tập truyện ngắn bạn chưa xuất bản, cuốn tiểu thuyết bạn ấp ủ bao năm và đang viết, tập thơ một ngày gần đây sẽ “trình làng” của Võ Nguyên.
Chúc sức khoẻ và hạnh phúc. Cho gửi lời thăm tổ ấm Yến Sào quý báu – gia đình thân yêu – của bạn.
Thân ái”.
Khởi viết từ 11 giờ đúng ngày 08. 10. HB4 (25. 8. G. thân HB4);
Viết xong vào lúc 15 giờ 21 phút ngày 09. 10. HB4 (26. 8. G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(1) Võ Nguyên (tên thật là Võ Văn Tám, bút danh trọn vẹn ban đầu là Võ Trung Nguyên), Bản hoà âm thôn dã (BHÂTD.), tập truyện ngắn, Hội Văn học – nghệ thuật Bình Thuận xuất bản, 1994; Vó ngựa đêm khuya (VNĐK.), tập truyện ngắn, Nxb. Thanh Niên, 1997 (tổng cộng hai tập gồm 19 truyện ngắn); Lời cho người hát chia tay (LCNHCT.), tập thơ, Nxb. Văn Học, 2000.
(2) GS. Nguyễn Đăng Mạnh, Vài ý nghĩ về tập truyện của Võ Nguyên, BHÂTD., sđd., tr. 3 – 4.
(*) Giải truyện ngắn hay 1991 – Hội Nhà văn TP. HCM., Tạp chí Văn & Bns. Kiến Thức Ngày Nay; giải hồi kí và truyện ngắn hay 1992 – Báo Giác Ngộ; giải truyện ngắn và thơ hay 1992 - 1993 – Hội VHNT. Nghĩa Bình.
(3) GS. Nguyễn Đăng Mạnh, bài đã dẫn, BHÂTD., sđd., tr. 4.
(**) Hoà âm điền dã, bản tái bản gần đây của Nxb. Đà Nẵng, 1990, có tên là Khúc nhạc lòng của vị mục sư, tuy vẫn đề tên dịch giả là Vân Mồng (Bùi Giáng)! Và trước đây, bản dịch tiếng Việt của Dưỡng chất trần gian (đúng nghĩa nguyên văn), có tên sách là Trần gian muôn màu, dịch giả Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc, Nxb. Trẻ (cũ), Sài Gòn, 1973. Chủ yếu Võ Nguyên tiếp thu những yếu tố tích cực từ Dưỡng chất trần gian.
(4) LCNHCT., sđd., tr. 52.
(5) LCNHCT., sđd., tr. 33.
(6) LCNHCT., sđd., tr. 57.
(7) LCNHCT., sđd., tr. 19 – 20.
(8) LCNHCT., sđd., tr. 17 – 18.
(9) LCNHCT., sđd., tr. 28 – 29.
(10) LCNHCT., sđd., tr. 38.
(11) LCNHCT., sđd., tr. 31.
(***) Nguyễn Nhược Pháp, Ngày xưa, Nxb. Văn Học tái bản, 1987.
Đã gửi: Ngày 10. 10. 2004
1. Võ Nguyên
2. Tạp chí Biển Xanh (Hội Văn nghệ Bình Thuận).
__________________________
Bài thứ bảy
ĐỌC THƠ TẦN HOÀI DẠ VŨ
1
Cách đây ba mươi mấy năm, tôi đã nghe nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ giải thích bút danh của anh (*). Trong những năm gần đây, rất tình cờ, một lần nữa tôi lại được nghe lời giải thích đó cũng của chính anh với những người bạn trẻ, bắt đầu làm thơ khi đất nước bước vào cuộc Đổi mới ở thập niên 90 vừa qua. Cái bút danh bốn chữ hơi đậm chất từ chương Hán học ấy, quả thật là một điển cố trong văn học Trung Hoa. Anh mượn tứ thơ của Đỗ Mục đời Đường, bài “Bến sông Tần Hoài” (1), nhưng thay thế hình ảnh sương khói, ánh trăng đêm bằng hình ảnh mưa đêm (dạ vũ), để thể hiện tâm trạng và tuyên ngôn cho đời thơ của mình.
Mưa đêm trên bến sông Tần Hoài, tự thân hình ảnh điển cố – thơ, có sáng tạo thêm ấy đã biểu đạt tâm trạng bi thiết của người dân mất nước, thể hiện tuyên ngôn thuở bấy giờ của một người trẻ tuổi làm thơ, quyết tâm dùng thơ ca để cảnh tỉnh, đánh thức những ai còn ngủ vùi trong men say cùng tiếng hát phấn son trước vận nước đau thương.
Nhưng suốt ba mươi mấy năm đọc rải rác thơ Tần Hoài Dạ Vũ, đến lúc này, sau khi đã đọc hết 03 tập thơ anh đã xuất bản, tôi vẫn muốn tách bút danh ấy thành hai hình ảnh, “bạc Tần Hoài” và “dạ vũ”. Tôi nghĩ, như vậy mới hiểu thật trọn vẹn hai mảng thơ xuyên suốt và song hành trong đời thơ anh. Tần Hoài Dạ Vũ là một nhà thơ thao thức, trăn trở về hiện thực đất nước, nhất là về Miền Nam trước Ngày Thống nhất, đồng thời anh cũng là nhà thơ của những tình yêu đương trầm buồn da diết, ít ra cũng rất đỗi ngậm ngùi.
Có thể nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ sẽ không bằng lòng về sự tách bút danh thành hai như một cách nói đó. Tuy nhiên, theo tôi, có thật sự hiện hữu hai khía cạnh chính yếu của một tâm hồn thơ như thế trong con người nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ. Dĩ nhiên hai khía cạnh ấy khác nhau, và mặc dù cũng có chút nào đó mâu thuẫn nhau, nhưng không thể tách rời nhau một cách máy móc. Nhìn chung, con người nào lại không là một khối mâu thuẫn! Nguyễn Du là một khối mâu thuẫn! Maiakovski cũng là một khối mâu thuẫn! Có thể tìm thấy sự mâu thuẫn ấy trong hầu hết các nhà thơ, nhà văn. Vả lại, sáng tạo thơ ca của một đời thơ là cả một quá trình. Quá trình sáng tạo nào cũng không thể đứng yên, mà luôn vận động trong mối quan hệ biện chứng giữa tâm hồn với bối cảnh của từng thời đoạn xã hội. Do đó, tôi cũng không thể đọc thơ phản chiến và thơ yêu đương của Tần Hoài Dạ Vũ với cái nhìn tĩnh tại, phiến diện.
2
Thơ yêu nước tại Miền Nam còn được gọi bằng một cụm từ quen thuộc trước đây, thơ phản chiến. Tần Hoài Dạ Vũ là một nhà thơ phản chiến, trực tiếp dấn thân vào hiện thực xã hội Miền Nam, có thể kể từ bài thơ có ghi ngày tháng sáng tác sớm nhất trong tập Tình yêu và vầng trăng lửa (2): tháng 3. 1963. Tất nhiên đó là một bài thơ của nhà thơ 17 tuổi, đã đăng trên báo chí thời ấy.
“… Những nghìn năm giết nhau / Thôi tôi mỏi tôi nhừ […] // Tôi ôm đầu âu lo / Tôi cong mình đau đớn / Chữ S thành từ đó / Rằng Việt Nam Việt Nam // Vô sản hay tư bản? / Độc tài hay tự do? / Tôi đui mù tâm thức / Mồm túa đầy cơn ho …” (3).
Đại từ “tôi” trong bài Lời đất này không phải tác giả tự xưng. Đó là Đất. Đất lên tiếng nói. Nhà thơ như một người thư kí ghi chép lại đúng y nguyên lời của Đất. Qua đó, nhà thơ vẽ lại hình thể đất nước ta như một người ôm đầu, hai chân như sắp khuỵu. Một cách khá bộc trực, thơ đã được viết như thế, bởi xã hội đòi hỏi nhà thơ phải nói thẳng, nói rõ những trăn trở, thao thức, băn khoăn trong chọn lựa. Thơ ca luôn gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đọc Lời đất, tôi còn hình dung ra, đất nước sau một thời gian dài phân liệt Đàng Trong – Đàng Ngoài, phân liệt lương – giáo, lại rơi vào tình cảnh chia cắt Đất nước, chia cắt bằng dòng sông Bến Hải, một dòng sông hiền hoà bỗng dưng bị biến thành lưỡi dao khổng lồ, sắc lẻm và đầy máu.
Tần Hoài Dạ Vũ thuở bấy giờ đã nhận rõ, trên đất nước Việt Nam chúng ta, “mỗi thân thể hằn vết thương chia cắt / mỗi linh hồn đau nhức chuyện phân li” cùng với “máu anh em bè bạn hãy còn rơi” (4) và “thân đã rách giữa hàng rào ý thức” (4).
Như khá nhiều nhà thơ khác, sáng tạo thơ ca và nhận thức lịch sử, nhận thức thực tại đang từng phút từng giây trở thành lịch sử hầu như đồng thời song hành và đồng nhất trong một quá trình. Ở tuổi mười bảy (1963), tuổi hai mươi (1966), trong xã hội Miền Nam bị bưng bít thông tin, Tần Hoài Dạ Vũ bấy giờ, cũng như nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn, đã nhận thức cuộc chiến tranh trên đất nước ta chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn như thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ở bản nhạc Gia tài của mẹ trong tập Ca khúc da vàng, Trịnh Công Sơn viết vào khoảng năm 1966: “hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Hai mươi năm nội chiến nào vậy? Bốn chữ số 1966 ghi dưới bài thơ sau đây của Tần Hoài Dạ Vũ xác định rõ, đó là 1946 – 1966. 1966, đó chính là thời điểm Tần Hoài Dạ Vũ viết bài thơ Tháng hai ở Huế (5), và anh cũng xem hai mươi năm với “những giới tuyến, những màu cờ” ý thức hệ ấy chỉ là một trận dịch hạch:
“… Chiến tranh quất vào thân thể chúng ta bầm tím / Chiến tranh quất vào quê hương chúng ta nghèo đói / Anh lớn lên thì sự đã rồi / Mọi chuyện đã dàn bày hận thù đã tới / Tới cùng những cơn mưa nước mắt / Tới cùng những giới tuyến những màu cờ / Tới cùng lửa cháy tới cùng bom đạn / Tới đã hai mươi năm tới từng số phận / Như trận dịch tới hôm nay …”
“Những giới tuyến, những màu cờ” không chỉ là Bến Hải kể từ 1954 về sau!
Có thể vào tháng 2. 1966, Huế phải đối đầu với một trận dịch hạch có thật, nhưng khi vào thơ Tần Hoài Dạ Vũ, dịch hạch thành một ẩn dụ, “ôi súng ôi bom ôi dịch hạch / những tháng ngày lấm lem // gặp nhau hỏi bàng hoàng thảng thốt / đã chích chưa đã chích chưa đã chích ngừa dịch hạch chưa?”. Hẳn nhà thơ khẳng định rằng, cuộc chiến trên đất nước đã đẩy dân tộc vào sự tương tàn bằng súng đạn bom mìn và bằng cả những thông tin tuyên truyền tâm lí chiến độc hại, lan nhanh, xuất phát từ đài phát thanh, báo chí chế độ cũ. Không dám đoan chắc, nhưng tôi cũng có cảm giác Tần Hoài Dạ Vũ khi viết, đã vận dụng nhan đề của một cuốn sách khá phổ biến hồi đó, Dịch hạch (1947) của Albert Camus (1913 – 1960), một nhà văn Pháp, với tư tưởng bế tắc của ông ta, “cả thế giới là một trại tập trung và chiến tranh phi nghĩa”, và chút tinh thần trách nhiệm của con người trước vận mệnh chung mà ông kêu gọi. Trong chiều hướng ấy, ông thuộc vào hàng ngũ tiên phong ở Phương Tây. Nói đúng hơn, cựu đảng viên Đảng Cộng sản Pháp Albert Camus muốn tìm kiếm “con đường thứ ba”, ở giữa hai khối, cộng sản và tư bản. Camus viết Dịch hạch để chống lại “vi trùng dịch hạch” của chủ nghĩa phát xít. “Con đường thứ ba” này ở các nước thuộc địa như Việt Nam vốn đã có trước cả Albert Camus với tính đặc thù trong điều kiện xã hội cụ thể. Và dường như cũng trong luồng tư tưởng “mở ra con đường thứ ba” đó, nhưng Tần Hoài Dạ Vũ vận dụng Dịch hạch phù hợp với bối cảnh xã hội Miền Nam thời trai trẻ của anh. Huế của Tần Hoài Dạ Vũ là “nơi chúng ta còn đối mặt bi thương”, đối mặt với những luận điệu tuyên truyền của Mỹ ngụy. Không quay lưng với Tổ quốc, với Huế, thái độ đó đã là một sự dấn thân, và anh không muốn chỉ ở riêng anh, anh làm thơ như một lời kêu gọi, một sự chia sẻ trong tinh thần cộng đồng trách nhiệm.
Cũng như Trịnh Công Sơn và một phân số khá lớn trong lứa tuổi anh cũng như lứa tuổi của tôi về sau, nhận thức, tâm tình, thái độ ấy là có thật như một trạng thái tinh thần thế hệ đã thuộc về lịch sử của xã hội Miền Nam trước đây.
So với thơ yêu đương, thường quen gọi là thơ tình, ở Tần Hoài Dạ Vũ, thì những bài thơ phản chiến của anh, nói đầy đủ là thơ phản đối chiến tranh phi nghĩa, đã trở nên phóng khoáng hơn, mạnh mẽ hơn, thật sự thoát khỏi sự câu thúc về niêm luật thanh vần. Ở thể thơ tự do, câu thơ tãi ra, giãn ra, dễ hiểu như lời nói thường ngày. Đó là loại thơ không phải để thầm thì giữa hai người yêu nhau hoặc để vừa đọc vừa ngẫm nghĩ một mình với tâm trạng cô đơn, trầm lắng. Đó là thơ để đọc trầm hùng, hoặc đọc như gào thét, như tiếng kèn xung trận trước công chúng. Tuy vậy, anh vẫn làm thơ theo các thể truyền thống, nhưng để dễ hiểu, Tần Hoài Dạ Vũ lại thường dùng phương thức biểu đạt nửa ẩn dụ (mặc dù cũng có ẩn dụ toàn phần) để thể hiện những ý tưởng về sự vật có ý nghĩa biểu trưng, về trạng thái trừu tượng:
“… cho con sông nhân đạo / chảy trên cánh đồng tim / chẳng gặp ghềnh ích kỉ / thuyền yêu không sợ chìm …” (6).
Hành trình tư tưởng và thơ ca của Tần Hoài Dạ Vũ, không nghi ngờ gì nữa, đã khởi phát từ tinh thần dân tộc, khát vọng tự do, phản kháng cường quyền tay sai với nhận thức mà về sau anh tự nhận là quá nhiều “sương mù” (không phải là sương mù thiên nhiên, sương mù thơ mộng!), để dần dần tiến đến phủ nhận những cái gọi là “cách mạng quốc gia”, “chỉnh lí quốc gia” ở chính trường Miền Nam. Vào tháng 12. 1967, trong một bài thơ Thư gửi em gái ở Hội An, người em gái được mẹ sinh ra “năm tháng trước ngày đình chiến […] / khi người ta lập tờ khai sinh hai nước Việt Nam” (1954), Tần Hoài Dạ Vũ viết:
“… Mười ba năm trên xứ sở tật nguyền / Tiếng súng nổ ru em ngày mới lớn / Cách mạng xuống đường đả đảo hoan hô / Thay đổi gì đâu em / Đời vẫn ngục tù / Vẫn cha mẹ ngày đêm khốn đốn / Gạo tiếp tế tháng đôi lần chen lấn / Cơm vẫn thường bữa mắm bữa rau […] / Anh thức dậy đêm nay […] / Từ trái tim mở ngõ một ngày / Là đau thương thổi về ngàn năm lồng lộng / Tổ quốc chúng ta đây / Màu cờ thấm máu / Lịch sử chúng ta đây / Tầm tã trận mưa bom / Mưa tan nát trên mặt người hấp hối / Trời Bắc Nam sùi sụt không thôi / Ôi Sài Gòn Hà Nội / Những bàn tay chưa nối lại nhịp cầu / Những mắt nhìn còn chôn giấu hầm chông / Trong tiếng nói có nghi ngờ phục kích / Làm sao để yêu thương / Mà không sợ người giật mìn chia cắt …” (7).
Từ nền tảng cơ bản của mọi nền tảng là tinh thần dân tộc, Tần Hoài Dạ Vũ đã trăn trở, thao thức, tìm kiếm và do đó, tất nhiên phải nếm trải cả những sai lầm vì xã hội đầy đặc “mù sương” tuyên truyền. Tâm trạng, nhận thức bấy giờ của anh, sau bao nhiêu năm tháng, ta nhìn lại, thấy đáng quý biết bao. Dẫu có sai lầm ít nhiều về nhận thức, về tư tưởng, nhưng giữa một Miền Nam sa đoạ, suy đồi bằng đủ các thứ khuyến khích lãng quên, buông xuôi, phó mặc thời cuộc và vận nước, tấm lòng và nghị lực của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ vẫn sáng lên trong bối cảnh quá nhiều “sương mù” đó. Tìm đường! Nhận đường! Mở đường! Đó là tiếng gọi của thời đại và của trái tim anh. Con đường ấy, anh và thế hệ tự tìm kiếm, tự khai mở lấy, chứ không phải khi mới chào đời hoặc khi đang còn là cậu bé học sinh trung học, con đường ấy đã được người lớn chỉ vẽ, áp đặt. Do đó, đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ, không ai không quý mến, trân trọng hình ảnh một thanh niên cùng với thế hệ mình thao thức, trăn trở để tự khai mở một hướng đi tới, mà khởi điểm cũng như mục đích vẫn là tinh thần dân tộc, nền độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc.
Con đường thơ ca và nhận thức của anh, một chàng trai bấy giờ đang ở lứa tuổi hai mươi, vẫn còn ở phía trước. Anh viết Gửi tới một tương lai, trong âm hưởng sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân (1968), mà báo chí Miền Nam gọi là “biến cố Tết Mậu Thân”, chính xác là vào mùa đông năm ấy. Đó cũng là thời điểm có lẽ nhà thơ đã tốt nghiệp đại học sư phạm và đã ra trường, đi dạy học, lại trở về thăm Huế.
“Những ngày trở về tôi không gặp mặt bạn bè / Thiên nhiên khóc bên lòng vô vọng / Thành phố im lìm dưới trời mưa tai ương / Còi hụ giới nghiêm lúc tám giờ […] // Nhưng đời sống của chúng tôi đóng cửa vội vàng / Giấc ngủ trẻ con giàu ác mộng // Ai đang đi dưới một bức tường / Bỗng thấy tim đau đời mẹ nổ // Những ngày trở về tôi sống bơ vơ / Đi mãi về lòng mình lá chết / Thèm gặp một người quen mừng rỡ hàn huyên / Chỉ thấy những người lính viễn chinh nói cười la hét / Những đêm khuya gác tối không đèn / Un buồng phổi khói tàn nhựa thuốc / Muốn viết những bài thơ tố cáo bạo quyền / Muốn viết những trang thư tình dù em không đọc / Nhưng lòng khô bãi gió đìu hiu / Chỉ còn nỗi chết im lìm trong hai huyệt mắt / Sáng ngày mai rửa mặt, lang thang / Đi gặp những hồn ma kêu vang mất nước // Tôi muốn cúi xuống hôn những con đường / Ghi từng nỗi nhọc nhằn dân tộc …” (8).
(Huế, 12. 1968)
Đây là bài thơ có thể nói, đã phản ánh rất đúng tâm trạng của một phân số thế hệ trong bối cảnh Huế – Miền Nam hồi đó. Lính viễn chinh Mỹ, Đại Hàn “nói cười la hét” bắt đầu có mặt trong thơ anh! Và Tần Hoài Dạ Vũ không thể không viết rõ, viết công khai hai chữ “mất nước”!
Với một người anh cũng là học sinh, năm học 1969 – 1970, tôi đang ở Huế. Từ Quảng Trị, tôi vào thành phố cổ kính ấy để học lớp 8 (đệ ngũ) tại Trường Trung học Hàm Nghi, ngôi trường dưới triều nhà Nguyễn được gọi là Quốc tử giám. Tôi có thể cảm nhận được không khí đấu tranh của sinh viên học sinh Huế vào thời điểm ấy, và cũng có đôi lần tham dự bãi khoá, mít tinh, biểu tình. Đọc lại chùm thơ Tần Hoài Dạ Vũ viết về Huế trong thời đoạn này, tôi như đang cảm nhận lại một phần không khí Huế năm xưa.
Ở thời điểm 1969, Tần Hoài Dạ Vũ đã thật sự đến gần với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Trong những người bạn của anh, có người đã “lên xanh”, như Trần Minh Thảo, Trần Văn Hoà. Họ đã lên chiến khu, cầm súng chống đế quốc Mỹ xâm lược. Với anh, trận tuyến hầu như đã khá rõ ràng.
“… tôi nhớ đến các anh / những người đã ra đi không lời từ biệt / có bao giờ chúng ta lại nói với nhau / lời chân thật? Có bao giờ chúng ta im lặng xót đau / thấy một mùa tai ương thổi tới / đất nước nghẹn ngào mưa / niềm vui chúng ta gót chân người giẫm nát […] // những con ruồi xanh bu trên hạnh phúc tôi thiu / những con ruồi xanh trên phần số chúng ta / nỗi ám ảnh kinh hoàng dân tộc […]// không lẽ chúng ta sống suốt một đời khốn nạn / và chết trần truồng nô lệ ngày mai? […] // tôi nghĩ đến người xưa mài gươm dưới trăng […] // trên vỉa phố hồn mình còn nghe đau nhức / những gót giày ngoại quốc ngửa nghiêng …” (9).
Ý thức phản chiến không còn là phản đối chiến tranh phi nghĩa chung chung. Thơ Tần Hoài Dạ Vũ lúc này cũng trở nên nhuần nhị hơn. Có lẽ đây là lúc ngọn bút thơ của anh đã được tháng ngày và nhiệt tình rèn luyện, mài giũa, để có thể viết nên những dòng thơ sắc nét và tài hoa, bay bướm một cách giản dị.
Tần Hoài Dạ Vũ nhìn vào hiện thực chiến tranh, để thấy rõ những điều giả dối trong sách giáo khoa, thấy rõ bản chất của lòng thù hận ở ngoài xã hội, và muốn được giãi bày cùng người em hay nàng thơ nào đó về những nỗi niềm mà hiện thực chiến tranh đã khắc sâu móng vuốt của nó vào lòng anh, về những lớp học sinh đầu tay ở ngôi trường đầu tiên anh làm thầy giáo:
“… trong những trang sách anh dạy học trò / đã thấy hiện hình những điều xảo trá / hạnh phúc bỏ đi xa / khi chúng ta mỗi ngày chen vai cùng thù hận // Niềm thù hận không phải tự tâm hồn / không phải tới từ đồng bào hay xứ sở / nhưng thù hận vẫn tới khắp mọi miền / như loài quạ đen của thời đại / về từ miền đất nào xa xôi / bay suốt tim người rao tin dữ […] // Em làm sao đọc hết một đời / trang sử lòng anh đầy máu đỏ // Sáng hôm nay đứng giữa sân trường / chung quanh tôi những đời đơm lộc mới / biết ngày mai chúng ta còn gặp lại nhau? / mừng một niềm vui vừa tới / Đêm hôm qua người chết lặng câm …” (10).
(Tam Kỳ, 08. 5. 1970)
Phải chăng không phải “nội chiến” mà chính là “ngoại chiến”?
Như hầu hết những bài thơ phản chiến hồi đó, thơ tự do của Tần Hoài Dạ Vũ hình như được tiếp nối bằng mạch thơ của Hữu Loan, Yên Thao, Quang Dũng, Trần Dần, Phùng Quán thời kháng chiến chống Pháp và kể cả thời Nhân văn – giai phẩm ở Miền Bắc. Bài thơ thường là khá dài, tâm trạng trữ tình – suy tưởng được trải bày từ một khung cảnh (đi bách bộ trên đường phố mưa chẳng hạn), trong đó nhà thơ với nhiều góc độ hướng về nhiều không gian, thời gian, và nhà thơ độc thoại đơn thuần hay độc thoại theo cách đối thoại với nhiều đối tượng thơ khác nhau, khi với mẹ, khi với em, khi với bạn… Thơ như một loại tuỳ bút chất chứa, trào dâng, miên man nhiều cảm xúc trữ tình công dân (chữ của Trần Dần là “thơ chính trị”). Có lẽ bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan, bài Nhà tôi của Yên Thao, bài Lời mẹ dặn của Phùng Quán, bài Nhất định thắng của Trần Dần… là khá tiêu biểu cho loại thơ theo cấu trúc này. Thử làm một sự so sánh giữa thơ Trần Quang Long, Trần Vàng Sao, Thái Ngọc San, Trần Đình Sơn Cước, Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật (11) và thơ Tần Hoài Dạ Vũ… với những bài thơ của các nhà thơ lớp trước trên kia sẽ thấy rõ một sự ảnh hưởng khá rõ về kết cấu, nhạc điệu, ngôn từ…
Có gì trái khoáy không khi nhận định như thế? Nếu cần thiết phải có một chút lí giải, phải chăng là thế này: Những nhà thơ phản chiến ở Miền Nam vốn là những người trẻ tuổi có lòng yêu nước mãnh liệt, tâm hồn họ chan chứa tinh thần dân tộc, trái tim họ sục sôi ý chí căm thù quân xâm lược viễn chinh, họ dũng cảm kêu đòi thống nhất, họ tha thiết yêu công lí với tất cả tấm lòng. Theo ngày tháng, họ đã nhận thức rõ thực chất của chế độ Mỹ nguỵ ở Miền Nam, nên dần dần họ đến với Mặt trận Giải phóng. Nhưng họ cũng là những người cháy bỏng khát vọng tự do. Do đó, họ không thích thú gì với loại thơ ca “chính thống” ở Miền Bắc. Họ sẵn sàng làm người cộng sản, và thực sự có người là đoàn viên, đảng viên cộng sản thuộc Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam Việt Nam (Đảng Lao động Việt Nam tại Miền Nam), nhưng thực chất họ vẫn là những người cộng sản tự do, dân chủ và biết phản kháng lại bất công ngay dưới chế độ cộng sản, chứ không phải là loại “cộng sản đàn cừu” dưới gậy chăn dắt, gậy chỉ huy văn nghệ. Tôi nghĩ rằng đó là trạng thái tinh thần đích thực của những người sinh viên tuổi hai mươi, những nhà thơ trẻ phản chiến ở Miền Nam. Sự gặp gỡ giữa Hữu Loan, Yên Thao, Phùng Quán, Trần Dần… với Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, Thái Ngọc San, Trần Đình Sơn Cước, Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Tần Hoài Dạ Vũ… là không có gì nghịch lí.
Tôi cũng không dám quả quyết về tư tưởng và hành trạng chính trị của những nhà thơ phản chiến ấy, nhưng điều tôi đoan chắc trên kia, là trên cơ sở văn bản nghệ thuật được đăng tải trên các tờ báo hợp pháp hoặc không chịu sự kiểm duyệt thuở bấy giờ.
Thơ Tần Hoài Dạ Vũ không những thể hiện tính kế tục giữa thơ chống Pháp, Nhân văn – giai phẩm với thơ anh trên mặt báo, mà chính bản thân con người nhà thơ trong đời thực cũng thế. Tôi vốn là một trong những học sinh của thầy giáo Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ), nên đã được nghe ngay tại lớp học những bài thơ không bao giờ có thể có trong sách giáo khoa dưới nhà trường chế độ cũ, do chính nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đọc (**). Đó là những bài Màu tím hoa sim, Nhà tôi, Lời mẹ dặn, Nhất định thắng… cùng với những bài thơ phản chiến của chính thầy giáo – nhà thơ, trong đó có bài Dòng chữ máu rưng rưng.
“Buổi chúng ta về qua một dòng sông / Sương mù quê hương lên rất chậm / Anh nhìn tôi cười nói như xưa / Nhưng trong nắm tay đã có tấm lòng uất nghẹn […] / Dù trái tim chúng ta có buồn / Vẫn thấy nắng hồng lên chật phổi / Những khổ đau như nấm mọc thân non / Khô héo hết khi niềm tin lớn mãi […] // Lòng chúng ta ai cứa vết dao / Nhìn những đoàn xe viễn chinh cuốn bụi mù cuối phố […] // Ai cướp cơm và ai đong máu / Ai bán thịt xương ta dựng những phố lầu / Đời chúng ta ai rào quanh bóng tối / Anh em ơi, lòng nhớ dặn lòng / Hạnh phúc vẫn đang còn trui lửa đỏ / Anh đã tin và tôi đã tin / Trước bạo lực không bao giờ cúi mặt […] // Tôi cúi đầu đi / Mưa rơi / Rơi mãi / Đất nước Miền Nam trơ trụi xác xơ […] / Thiếu những nụ cười / Thiếu cả tự do làm hơi thở […] // Anh ơi, đêm còn quá dài không thể ngủ / Tôi ngồi trong tối ngóng phương xa / Chờ đợi Hoà bình lên trước ngõ / Lòng sục sôi mà không viết nổi câu thơ / (Hăm bảy tuổi lẽ đâu đành chịu trói?) […] // Này anh bạn viễn chinh xa lạ / Xóm làng tôi anh đốt phá tan tành / Tương lai chúng tôi anh nung sém điêu linh […] // Anh ơi, hãy thắp đuốc lên môi / Nắm tay lại bao nhiêu xích xiềng phá hết […] // Ta đi mừng hội mới / Tổ quốc ơi, khắc hết cả cuộc đời / Dòng chữ máu rưng rưng / Tự do hay là chết / Khắc giữa quả tim Việt Nam mãi mãi kiêu hùng” (12).
(30. 6. 1971)
Sau khi ra Huế tiếp tục giảng dạy, Tần Hoài Dạ Vũ vẫn tìm cách gửi báo in không giấy phép (thậm chí còn ghi giấy phép là Hiến Pháp, để chơi khăm chế độ Mỹ ngụy) vào Tam Kỳ (tỉnh Quảng Tín, tức là tỉnh Quảng Nam bây giờ). Chúng tôi, những học sinh lớp 10, 11 chuyền tay nhau đọc. Bài Nối bước, viết tặng Nguyễn Đông Nhật, em trai của nhà thơ, đã được in trên tạp chí Đối Diện (***) hồi ấy. Đó là sự nối bước theo thế hệ cha ông chống Pháp:
“… chúng lộn, chúng nhào / chúng gào, chúng thét / chúng băm vằm ứa máu bầu trời xanh / nhà cháy / thây tan / dưới những cơn mưa sắt / nhưng chúng càng giết người càng sáng ngời tim sự thật / trái tim Việt Nam anh dũng chống xâm lăng // Em tôi nay trưởng thành đi chiến đấu / (đứa em sinh chưa đầy tháng buổi cha đi) / nối bước ông cha quyết chí giữ làng / nương bóng tre xanh vươn mình chống Mỹ […] / khuya nay loa gọi thức ánh trăng rằm / sao trời nở trên ngọn cờ cứu nước / ta ôm súng lên đường nhớ lời mẹ ru thuở trước…” (13).
(06. 1972)
Và sau khi Hiệp định Paris 1973 kí kết, nhà thơ chào mừng đứa con đầu lòng ra đời bằng một bài thơ, không phải là thơ ru con, mà thơ phản chiến.
“Bây giờ không còn những con chó sói bên ngoài / không còn những tiếng nổ xâm lăng / không còn hận thù làm mắt nhìn bốc lửa / nhưng bây giờ vẫn còn những con chiên ghẻ trong làng / những tên đồ tể vẫn hằng trục lợi / những tên đầy tớ ngoan ngoãn để người sai / chúng âm mưu níu mùa đông lại / chúng rào quanh những khu vườn cây trái còn tươi / nhưng mùa xuân ở bên kia sông đang bước tới […] / Anh có nghe không nắng mai vừa tới / mang tình yêu hoà hợp xây đời // Còn rất nhiều nghi kị giữa chúng ta / còn rất nhiều hiểu lầm lo sợ […] // Ta đi khắp xóm làng hát lời ca ngợi / mùa thương yêu hoà giải của dân ta… ” (14).
Từ đó, thơ Tần Hoài Dạ Vũ luôn được viết với sự lặp đi lặp lại những từ “hoà hợp, hoà giải, liên hiệp, Hội trùng tu, Hội Nước” và có cả “Hội Loài người” (15). Trong Gió hoà bình đã thổi, có đoạn rất cảm động và nhuần nhị, có đoạn vì cần chuyển tải khẩu hiệu, nên vẫn còn “khó đọc”:
“Khi lũ giặc đã cuốn cờ xâm lược / gió thanh bình thổi bát ngát lòng ta / em nhớ về chung tay mừng Hội Nước / khắp Bắc Trung Nam hoà hợp một nhà! […]/Mẹ già ơi, gió hoà bình đã thổi / chúng con về dựng lại xóm làng xưa / thù hận cũ, bên bếp hồng, hoà giải / lòng tạnh rồi sau những tháng ngày mưa…” (15).
Đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ giai đoạn này, hiểu anh nhìn rõ thù hận chất chứa cả trăm năm là thù hận có thật, cần phải hoà giải để hoà hợp. Tôi vẫn còn nhớ trong cuốn Việt Nam sử lược (16), một bộ sử được xuất bản dưới chế độ thực dân, vài ba thế hệ đã đọc, có câu: “Dần dần người trong nước phân ra bên lương, bên giáo, ghen ghét nhau hơn người cừu địch”. Thù hận giữa người Việt với người Việt còn hơn thù hận cừu địch ngoại xâm là cả một sự thật khủng khiếp, và đã thuộc về sử kí! Nhưng lịch sử vẫn còn đang tiếp diễn từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai, cho nên, mặc dù nói với niềm hi vọng lạc quan nhất, cũng phải nói thù hận ấy hiện vẫn còn tồn tại âm hưởng của nó (chỉ âm hưởng thôi), trong xã hội Việt Nam hậu chiến (1975 – 2004) (17)!
Từ những bài thơ đầu tay, như Cho tương lai (18) (1964), Tần Hoài Dạ Vũ đã viết đến hai chữ “đức tin”. Phải chăng đây chỉ là một cách tu từ, hay thực sự là đức tin tôn giáo, cụ thể là Thiên Chúa giáo? Ở bài thơ Thư gửi em gái ở Hội An, anh lại mỉa mai: “Em ơi, phải chi Chúa cho chúng ta được quyền chọn lựa / Thuốc độc hay Hoà Bình” (7). Nhưng có lẽ một trong những đoạn thơ của Tần Hoài Dạ Vũ dễ khiến người đọc khó quên nhất vẫn chính là mươi dòng viết về người vợ hiền của anh (gia đình cha mẹ vợ thuộc bộ phận đạo dòng Thiên Chúa giáo): “Ôi vợ tôi hiền lành như bông lúa / Mắt trong ngon như một giọt nước dừa / Vẫn cam chịu đi về mấy mùa mưa nắng / Vẫn là con chiên ngoan đạo mỗi sáng đến nhà thờ / Cầu nguyện cho người chồng ngoại đạo…” (12). Tất nhiên Tần Hoài Dạ Vũ biết rõ như anh đã viết: “nhưng bây giờ vẫn còn những con chiên ghẻ trong làng…” (14)!
Có những cuộc tình duyên vốn khởi đầu bằng những rung động trong sáng, vô tư, rồi theo ngày tháng, những trái tim bị sa lầy không lối thoát một cách oan uổng. Đó là những cuộc tình duyên bi kịch rất có ý nghĩa về mặt văn chương, nhưng dưới lăng kính chính trị, hoá ra “có vấn đề”!
Tôi nghĩ, đây là một trong những điều đã làm nên khối mâu thuẫn trong tâm hồn thơ Tần Hoài Dạ Vũ! Nhưng ở thi sĩ, mâu thuẫn có tính bi kịch hoá ra lại là vấn đề rất thu hút đối với các nhà nghiên cứu, phê bình văn học vốn thường quan tâm đến các vấn nạn của hiện thực xã hội trong văn học. Và một nền văn học đích thực không bao giờ đơn điệu, bởi có sự hiện hữu của những mâu thuẫn bi kịch rất hiện thực ấy!
Chung quy, với mảng thơ phản chiến này, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ vẫn là một nhà thơ hiện thực giàu chất lãng mạn và lắm ảo mộng. Tôi từng biết, ai đó đã không ưa anh, cho anh là nhà thơ “tiểu tư sản”, ai đó nặng nề hơn, gọi anh là nhà thơ “ngụy tín”, “cải lương chủ nghĩa”, thậm chí thúc đẩy việc thi hành kỉ luật đối với anh (khai trừ anh cùng một loạt người ra khỏi Đảng), và ai đó chỉ biết ngậm ngùi, trong những cuộc chuyện trò nào đó, khi chợt nhắc về anh: thi sĩ “thất sủng”!
Chính Tần Hoài Dạ Vũ đã ghi nhận vào thơ anh những dư luận từ trước đó, 1965, trong bài Những ảo tưởng mùa xuân của loài rêu, chứ không đợi đến sau này (từ 1975), vì những lí do khác.
“… Người ta bảo anh là nhà thơ – anh tự hỏi không biết có phải – chỉ là một giống nhai lại mớ ngôn từ giẻ rách lừa dối thiên hạ bằng những ảo tưởng mặc áo hoa những khổ đau vớt ra từ lò nhuộm những hận thù súng đạn chết chóc viển vông // […] // Biết nói thế nào với em khi trán anh vẫn kẽm gai rào kín mắt anh nhìn tua tủa bàn chông và người đời thì vẫn liên tiếp ngộ nhận đằng sau mỗi lời nói nghi ngờ vẫn hằng phục kích? // Anh rơi từ đỉnh đau thương xuống vực sâu tủi hổ giấu mặt nằm im không dám nhìn ngày lên vàng vọt sợ đồng loại nhận ra mình chỉ là một tên mồm mép nói hoài về cuộc chiến tranh trong mỗi trái tim trên mỗi phần da thịt quê hương // […] // Anh vẫn đánh lừa anh mỗi ngày nghĩ rằng người ta không quên được vết thương càng lúc càng lở lói máu càng lúc càng đặc quánh căm hờn và những ruộng lúa chết ngạt trong rừng mưa bom sâu vào thân thể…” (19).
Mặc dù ít nhiều thừa nhận những thiên lệch trong cách nhìn, trong giọng thơ trước hiện thực Miền Nam và thường tự trách mình bằng hai từ “ảo tưởng”, “ảo vọng” (bởi thơ là tiếng nói cảm tính, không phải là kí sự lịch sử lạnh lùng), nhưng cũng chính nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đã xác định cho mình sứ mệnh của thi sĩ, trước những dư luận công kích, trước những bạo lực luôn luôn cố quyết dìm chết những tiếng thơ phản kháng:
“Anh đi ven sườn đồi / cứ muốn vượt lên đỉnh / sự thật ở trên cao ở phía trước anh / giữa một thời đại / mà mọi sức mạnh / đều muốn nhận chìm anh // Ngày chói sáng và mây bay đi / ngày chói sáng / những tiếng kêu xé lòng […] / anh không ngừng sống / với những ảo vọng // […] Thời đại kêu thét điên dại / trong trái tim anh lửa cháy / trái tim thành một lưỡi hái / gặt những mùa ảo vọng / trái tim không ngừng / chảy / máu…” (20).
Tôi thấy Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ có chất đỏ rất Pablo Néruda, một thi sĩ Chi Lê (Nobel 1971), mặc dù anh nhắc đến Núi Sọ trong Tân ước (Kinh Thánh), nơi Jésus Christ chịu tử hình trên thập giá dưới chế độ thực dân của đế quốc phong kiến La Mã, vì Jésus Christ đã dám rao truyền “đức tin mới”.
Luôn trăn trở về sứ mệnh của thơ ca và trách nhiệm của nhà thơ, Tần Hoài Dạ Vũ còn viết bài Dự báo (1986):
“Những nhà thơ của thập kỉ dãi dầu / lại viết về những ngày bình yên hằng tưởng […] // Những nhà thơ sống một thời xa hoa / nói điều cao xa trước một em bé đói / câu hát gỉ của một dàn đồng ca tiền chế / trôi thờ ơ trên những mặt người đang đứng trước cánh cửa tai ương // […] sẽ đến trong cuộc sống chúng ta / một ngày phố phường đỏ tươi ngọn cờ phẫn nộ // Khi ấy tình yêu chúng ta được đánh thức / bằng tiếng hát của những nhà thơ cô đơn” (21).
Phải chăng anh đã đi đến với chân lí nghệ thuật và chân lí trong lao động sáng tạo nghệ thuật? Không bao giờ có thơ ca được sáng tác tập thể và nhà thơ đích thực thiếu cá tính sáng tạo cả. Và câu hỏi cũng là câu trả lời của Jean Paul Sartre (1905 – 1980), anh thường nói với học trò ngày ấy, “trước một đứa bé đói, hãy đặt cuốn La naussé (Buồn nôn (22)) và ổ bánh mì, nó sẽ chọn thứ gì?”. Phải chăng cháu bé đói khát ấy không thể chọn La naussé (1938), cho dẫu La naussé là cuốn sách mà Jean Paul Sartre dốc hết tinh hoa của đời mình vào đó, để trình ra giữa đời một chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Cháu bé cần phải ăn cho lớn và đi học cho thành tài đã, rồi bấy giờ nó mới tìm đọc La naussé, xem tại sao phải buồn nôn trước hư vô, trước cuộc đời phi lí, phải dấn thân, phải phản kháng, và phải có tự do, phải có trách nhiệm. Ở đây, tôi không có ý nhắc lại để phê phán hay khen ngợi chủ nghĩa hiện sinh vô thần, mặc dù đó là “con đường thứ ba” ở Phương Tây giữa thế kỉ XX, theo cách của Phương Tây. Vấn đề là đôi câu thơ của Tố Hữu trong bài Có thể nào yên: “Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh / Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy”. Điều này đã có nhiều cuốn sách bình luận, tôi không phải bàn thêm. Cuối cùng, cái chính là suy tư của chính Tần Hoài Dạ Vũ về “tình yêu chúng ta” và “nhà thơ cô đơn”, chứ không phải nhà thơ trong dàn đồng ca thi sĩ “tiền chế” trước cây gậy chỉ huy văn nghệ. Tình yêu nào vậy? Tình yêu đương? Tình yêu cuộc sống? Tình yêu Đất nước? Tình yêu chủ nghĩa nhân đạo cụ thể và thiết thực? Vân vân dấu hỏi sẽ được đặt ra cùng ba dấu chấm lửng hay một dấu chấm quả quyết? Nhưng rõ ràng là đã có sự kiện Cởi trói (1987) trước “một ngày phố phường đỏ tươi ngọn cờ phẫn nộ”.
3
Tần Hoài Dạ Vũ còn là một thi sĩ của tình yêu đương và các tình cảm khác bên ngoài những suy tư về thời cuộc, những gì có thể gọi là thực sự dấn thân vào cuộc chiến tranh. Anh đã xuất bản hai tập thơ viết về những nỗi niềm đôi lứa và về những tâm trạng riêng tư: Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ và Ngọn lửa quạnh hiu. Thật ra, trong tập Tình yêu và vầng trăng lửa, mặc dù chủ yếu là thơ phản chiến, nhưng cũng có một chùm thơ yêu đương thuần chất được anh đặt vào giữa tập.
Số lượng thơ yêu đương được anh viết trước Ngày Thống nhất (1975) trong hơn hai tập thơ hoá ra không nhiều, so với mảng thơ cũng về đề tài này được anh viết về sau. Nếu chỉ căn cứ vào tỉ lệ như thế, ta cứ ngỡ đến lúc đã bước vào tuổi ba mươi (1976) Tần Hoài Dạ Vũ mới thật sự lao vào tình yêu đương!
Thơ yêu đương, Tần Hoài Dạ Vũ viết lúc anh còn ở lứa tuổi cháy bỏng nhất về loại tình yêu này, rất dễ nhận thấy, căn cứ vào sắc thái đặc trưng về ngôn ngữ thơ Miền Nam trong hơn hai thập niên chia cắt đất nước (1954 – 1975). Thơ tâm trạng riêng của anh trong giai đoạn này cũng thế. Tôi gọi đó là hương vị ngôn ngữ thơ Miền Nam (23).
Sau mấy mươi năm, đến bây giờ tôi vẫn thấy những đoạn thơ trong bài Hẹn về với Huế của Tần Hoài Dạ Vũ tuy vẫn chưa hề cũ, nhưng đó là nét đẹp cổ kính rất Huế:
“… Anh sẽ về một sáng mùa thu / sông Hương còn trắng những sương mù / áo em trắng nhịp cầu thương nhớ / bóng ngã lòng anh câu hát ru // Anh sẽ giong thuyền trên nước xanh / chở trăng Gia Hội vào Nội thành / soi nghiêng mái tóc thề tôn nữ / thiếp giữa một vùng hương mỏng manh…” (24).
(1964)
Hoặc ở bài Khi em 16 tuổi, nhà thơ bước vào tuổi 18 viết những điều vừa thơ mộng vừa rất thực ở tuổi dậy thì trong trắng:
“Nắng e thẹn dìu em từng bước nhỏ / hồn có buồn hơi thở cũng còn thơm / rừng tóc rối xôn xao loài dị thảo / mùa xuân sang chợt rủ xuống giận hờn // […]Con sóng nhỏ vỗ hai bờ cảm giác / vườn ngây thơ bướm trắng đã thôi vào / rồi một buổi buồn bỗng dưng thức giấc / đường em về chiều hoa rụng lao xao…” (25).
(1964)
Nhưng riêng ở mảng thơ về tâm trạng riêng trước Ngày Thống nhất, không phải chỉ một mình tôi, mà rất nhiều người đã đọc và thuộc nằm lòng một bài thơ được đăng trên bán nguyệt san Văn hồi ấy. Chiều mưa uống ruợu là bài thơ đẹp hoàn chỉnh của Tần Hoài Dạ Vũ về mặt ngôn ngữ thơ và tâm trạng thể hiện trong đó. Bài thơ của một người xa Huế và nhớ thương về Huế trong sự trống vắng quanh mình. Phải sống với Huế rất lâu và rất sâu với Huế mới có thể viết được những câu thơ với bao hình ảnh mang hồn vía Huế như vậy.
“buồn xuống ngang vai chiều tới chậm / lòng tôi mưa bụi nữa đây em / không chắc đêm nay mà ngủ được / rượu tàn không ấm nhớ không tên // tâm sự cứ như là áo rách / từng chiều chếnh choáng bước loanh quanh / hồn thôi bỏ mặc cho sương xuống / thương nhớ không vàng giọt nắng hanh // dừng chân dưới cột đèn châm thuốc / không gió mà tay lạnh rất đầy / mùa thu về nữa trên cây lá / mai mốt sẽ buồn như heo may //không biết tình xa chiều có lạnh / người về qua một bến sông xanh / áo bay hay là rơi vào Nội? / thương nhớ lòng theo mấy cửa thành // sao tôi cứ là mây viễn xứ / thèm về soi giữa mắt nhung xưa / mà không là một vầng trăng tỏ / nở giữa hồn em cả mấy mùa? // mưa rụng thêm hồn tôi nữa đây / chiều tàn. rượu hết. sầu chưa say / mai về tay níu vai cầu cũ / cởi áo xưa buồn cho gió bay” (26).
(1969)
Sau Ngày Thống nhất (1975), nhất là trong thời Đổi mới (1985) và Cởi trói (1887), thơ yêu đương và thơ tâm trạng riêng của Tần Hoài Dạ Vũ không phải vô cớ lại chiếm lĩnh cả tâm hồn anh. Tuy cả xã hội và riêng văn học nghệ thuật được đổi mới và cởi trói, nhưng Tần Hoài Dạ Vũ đã không còn dấn thân với tất cả tinh thần trách nhiệm như trước đây. Anh thừa biết những câu trong sách giáo khoa, ban biên soạn đã viết nhằm phê phán thơ ca lãng mạn tiền chiến (1930 – 1945), đại để là nhà thơ tìm đến tình yêu đương như một sự thoát li hiện thực xã hội dưới chế độ thực dân – nửa phong kiến. Nhưng khó viết về “con người mới, cuộc sống mới”, nay được tự do thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ yêu đương cũng là một lối thoát cho sự bế tắc hiện tại. Và tình yêu đương bùng cháy trong bao tập thơ, trang báo. Không thể ra khỏi quỹ đạo của thời đoạn, Tần Hoài Dạ Vũ sống lại với thời thanh xuân đã qua. Với yêu đương, anh yêu bằng cả trái tim nhưng đó là trái tim của một người đứng tuổi, đã từng trải, và đã xa lắm rồi những ngây thơ, sôi nổi, thiết tha mà thơ mộng ở tuổi sắp là sinh viên đại học. Trái tim anh gần đây vẫn sôi nổi, thiết tha như thuở nào, nhưng cảm xúc lại có chiều sâu của những trầm tư. Anh suy nghiệm về tình yêu đương. Và không nghi ngờ gì nữa, anh muốn tìm trong yêu đương một sự thăng hoa, giải thoát: tình yêu đương như một thứ tôn giáo mang tính chất trần tục. Anh làm thơ triết lí về tình yêu đương, trong đó có cả dục tính với sự ngợi ca thân xác (tất nhiên ở tuổi đã quá trưởng thành!), sự truy tìm bản thể, lại gồm cả sự tính toán giàu sang, danh vọng của người đàn bà ở tuổi chín muồi và đã trải qua nhiều nỗi đời, sự âu lo ở tuổi sắp sửa xế chiều của người đàn ông cô đơn, không thừa thãi tiện nghi vật chất. Tôi có thể nói về thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ giai đoạn sau này như vậy. Và tôi không thể không nhận ra, chính anh, Tần Hoài Dạ Vũ, sau cuộc trải nghiệm yêu đương với “người bạn đời ngoài hôn ước” (27)– theo cách nói của anh –, nhà thơ đã viết: “Kỉ niệm bây giờ là đôi mắt địa ngục soi mói khi cuối cùng tôi đã hiểu ra rằng chẳng phải tình yêu là tất cả” (28).
“Cuối cùng thì những dối trá cũng bày ra / nhưng anh không ngờ nó lại trần trụi đắng cay đến vậy / Bệnh tật là mặt trái của đắm say // Cuối cùng thì những ảo tưởng đã tan đi / nhưng anh vẫn không bao giờ còn nhắm lại được con mắt trong sáng / Chiếc mặt nạ của thói đời phóng đãng // Cuối cùng thì cuộc tình muộn phiền cũng đã kết thúc / nhưng anh vẫn không thể nào bước qua trái tim ngập giữa tro tàn / Li nước đã không còn một chút cặn” (29).
Quả thật, Tần Hoài Dạ Vũ đã viết được những bài thơ rất đẹp, đẹp một cách cay đắng, và có chiều sâu tư tưởng về tình yêu đương. Ngoài những thể thơ, kể cả thể tự do, thường thấy trong các tập thơ của anh, Tần Hoài Dạ Vũ còn làm sống lại và làm mới mẻ hẳn loại thơ văn xuôi mà chúng ta nếu để ý, sẽ thấy rất gần với thể phú trong văn học Việt Nam cổ điển. Ngọc tĩnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi, đặc biệt là Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát, Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ, đó là vài ba dẫn chứng dễ tìm thấy và hầu như ai cũng biết. Thể phú thực chất là thơ văn xuôi, có thể nói như vậy, mặc dù ở thể phú còn bị ràng buộc bởi phép biền ngẫu, thanh vận. Nói cách khác, thơ văn xuôi chính là thể phú tự do. Rabindranath Tagore thường dùng thể thơ văn xuôi này như ở tập Tâm tình hiến dâng (30) chẳng hạn, và các nhà thơ trước đây cũng có nhiều người sử dụng như Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Mai Trung Tĩnh, Nh. Tay Ngàn… Chùm thơ văn xuôi của Tần Hoài Dạ Vũ có tên riêng của từng bài như Thư gửi một người lỗi lầm, Mùa xuân xa tít, Đoạn kết của một nỗi buồn, Kinh cầu riêng cho một người, Bằng chứng, Bài ca của lòng trắc ẩn muộn màng, Phút giây vĩnh cửu, Lối về, và có thể kể cả bài Niềm tin. Đó là những sáng tạo mới rất đáng kể của anh. Riêng bài Niềm tin, thử không ngắt dòng, ta đọc được một đoạn thơ văn xuôi tuyệt vời:
“Nếu tuổi trẻ đã qua đi và chỉ còn những hoài niệm luôn luôn đè nặng tâm hồn tôi. luôn luôn cuốn tôi đi trong dòng xoáy của đời. luôn luôn vọng lại trong tôi những lời từ biệt, tiếng còi tàu hay tiếng gió của buổi hoàng hôn mưa bụi. tôi vẫn không tin rằng cuộc đời này chỉ có nỗi buồn…” (31).
Ở bài Niềm tin ấy, lần thứ nhất in ở tập Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ, lần thứ hai anh in cuối tập Ngọn lửa quạnh hiu để thay một lời tự bạt. Điệp cú “tôi vẫn không tin rằng cuộc đời này chỉ có nỗi buồn” ở cuối mỗi đoạn thơ là một sự khẳng định niềm yêu cuộc sống của anh như anh từng quả quyết đặt đầu đề cho một bài thơ khác, “Vì niềm vui. Với niềm vui” (32).
Một điều nữa có thể thấy ở mảng thơ yêu đương suốt đời thơ của Tần Hoài Dạ Vũ, mà tôi mạn phép gọi là mảng mưa đêm (dạ vũ), bên cạnh mảng thơ phản chiến bến Tần Hoài (bạc Tần Hoài): đó là hàng trăm bài thơ trau chuốt nhất của anh về ngôn từ, nhạc điệu và hình ảnh. Thơ phản chiến, anh viết khá giản dị, dễ hiểu, có nhiều bài đẹp và sâu trong sự giản dị, dễ hiểu ấy, nhằm phục vụ quần chúng. Thơ yêu đương của Tần Hoài Dạ Vũ được viết hầu hết với thi pháp khác hẳn, để người yêu thầm thì đọc cho người yêu, để ta đọc đi đọc lại trong suy ngẫm, mỗi lúc đọc mỗi phát hiện ra những dụng công rất tinh tế của nhà thơ.
Tuy nhiên, cũng không vì thế để rồi nói bừa rằng, Tần Hoài Dạ Vũ bỏ tất cả tâm huyết và gan ruột vào thơ yêu đương và chỉ thơ yêu đương mà thôi. Không, hoàn toàn không phải vậy. Tôi nghĩ, viết thơ phản chiến một cách dung dị lắm khi lại phải khổ công lao động nghệ thuật gấp nhiều lần so với việc làm một bài thơ yêu đương có hình thức trau chuốt tinh tế.
Một điều khác nữa, Tần Hoài Dạ Vũ rất ít khi làm thơ lục bát. Tuy vậy, với thể thơ này, để thể hiện tâm trạng riêng, anh vẫn có những câu rất hay, cái hay của sự giản dị, trong trẻo và gần gũi:
Mười năm không trở lại nhà
Bóng trưa nghiêng đổ tiếng gà trong mơ (33).
4
Mặc dù có sự giao thoa giữa mảng thơ phản chiến (bạc Tần Hoài) và thơ yêu đương (dạ vũ), nhưng ở Tần Hoài Dạ Vũ qua 03 tập thơ, có một sự rạch ròi đến độ không cần lưu ý cũng có thể thấy ngay.
Trong mảng thơ phản chiến, qua những bài thơ được sắp xếp theo thứ tự thời gian ở tập Tình yêu và vầng trăng lửa, dưới mỗi bài lại có cả địa điểm, ngày tháng năm hoặc chỉ là năm sáng tác, người đọc có thể hình dung rõ những chặng đường nhận thức cùng những dấu ấn tư tưởng và thủ pháp nghệ thuật thường dùng trong mỗi giai đoạn của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ. Thơ trữ tình (vốn thuộc loại hình hư cấu) không phải là hồi kí (thuộc loại hình ghi chép người thật, việc thật), tác giả cũng không xác định đó là kí sự hay nhật kí bằng thơ, tuy nhiên, người đọc vẫn hình dung ra một chân dung thơ (tôi không dám khẳng định là chân dung khắc hoạ con người đời thật) của Tần Hoài Dạ Vũ. Đó là con người thơ bên trong, con người sâu thẳm, của chính nhà thơ. Mảng thơ yêu đương của Tần Hoài Dạ Vũ góp phần rất lớn để chân dung thơ, con người sâu thẳm của nhà thơ hiển hiện trước mắt ta, qua những tần số rung cảm, tần số xuất hiện những hình ảnh, từ ngữ, ý tưởng, thủ pháp nghệ thuật mà tác giả tâm đắc nhất, trăn trở nhất, thao thức nhất.
Tôi có thể cam đoan với những ai chưa đọc trọn vẹn 03 tập thơ của Tần Hoài Dạ Vũ một điều: Trong một bối cảnh văn học đầy ngập những ấn phẩm suy đồi, có tác hại xô đẩy hoặc khuyến khích tuổi trẻ tìm kiếm sự lãng quên thế cuộc trong những mối tình yêu đương đủ loại, trong những thứ triết học xa lạ, viển vông, ẩn chứa nhiều độc tố chưa được chỉ ra (bên cạnh những yếu tố tích cực), và trong không khí xã hội đầy đặc những nỗi niềm mặc cảm nhược tiểu, mặc cảm thân phận, những thứ mặc cảm chỉ khiến tuổi trẻ cúi gục đầu buồn thảm, Tần Hoài Dạ Vũ đã phần nào nhìn ra sự thật lịch sử và thực trạng chế độ xã hội, đặc biệt là ở Miền Nam, để rồi xác định cho mình, bạn bè mình và cả những người nhỏû tuổi hơn mình một trách nhiệm ở trái tim – ngọn bút, trước vận nước. Đó là điều rất đáng quý trọng và kính mến. Tất nhiên anh cũng có những sai lầm, thiếu sót, phiến diện, những ảo vọng dung hợp đối cực, và không phải không có những thiên lệch. Nói rõ ra, chẳng lẽ Tần Hoài Dạ Vũ không có một chút nào xúc động trước hiện thực đấu tranh của phong trào Phật giáo, gồm cả lực lượng dân tộc thuần tuý đông đảo, chống chế độ Mỹ ngụy thời bấy giờ? Và anh còn thiên lệch về nhiều phương diện khác nữa. Nhưng với một tiếng thơ đấu tranh trực diện, những thiên lệch (đúng hơn là sử dụng thủ pháp nghệ thuật cường điệu) của tình cảm cháy bỏng nẩy sinh từ nhiệt huyết là một điều không thể khác được. Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ cũng không phải không nhận ra điều đó. Tôi nghĩ, hẳn có lúc anh đã tự hỏi, trái tim nhà thơ có thể công bằng, khách quan hơn đối với lịch sử, và cái nhìn của nhà thơ cũng có thể tỉnh táo, toàn diện, thấu đáo hơn về hiện thực xã hội – lịch sử chăng?
Tôi vẫn giữ lòng quý trọng, kính mến ấy về nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ ở những thao thức, trăn trở trong thời gian sau Ngày Thống nhất (1975), mà anh đã viết thành thơ trong 03 tập thơ đã xuất bản, mặc dù hình như anh đã bị quá nhiều áp lực, các luồng sức ép vừa thực chiêu vừa hư chiêu, nên “nhiều lúc như để tâm hồn nghiêng về thế giới của hư vô” (34); và cho dẫu như vậy, anh “vẫn không tin rằng cuộc đời này chỉ có nỗi buồn” (31).
Tôi hiểu, chưa có thời đoạn nào sức ép đối với người làm thơ, viết văn (tất nhiên liên quan đến sử học) lại ghê gớm và từ nhiều phía như hiện nay.
Nhưng, ngoài tình yêu cuộc sống, chúng ta còn biết đòi hỏi gì nữa ở một nhà thơ vốn quá bơ vơ và rất lẻ loi giữa trần gian này?
Khởi viết từ 10 giờ đúng, ngày 15. 10. HB4 (02. 9 G. thân HB4);
Viết xong lúc 16 giờ 03 phút, ngày 17. 10. HB4 (04. 9 G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(*) Trong cuộc sống, có nhiều góc độ ứng xử, và mỗi góc độ đều phải đặt trong một điều kiện giao tiếp thích hợp. Đây là lần đầu tiên, tôi xin phép được gọi thầy giáo trực tiếp giảng dạy tôi vào học kì I năm lớp 10 bằng một đại từ trong quan hệ chỉ chênh lệch nhau khoảng 10 tuổi và trong tình thân văn nghệ: anh.
(1) Thơ Đường, tập 1, nhiều người dịch, Nxb. Văn Học, 1987, tr. 263: “Bạc Tần Hoài”, nguyên tác của Đỗ Mục: Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa / Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia / Thương nữ bất tri vong quốc hận / Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”! Khương Hữu Dụng dịch: Nước lồng khói toả, cát trăng pha / Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia / Con hát biết chi hờn mất nước / Cách sông còn hát “Hậu đình hoa”!
(2) Tần Hoài Dạ Vũ, Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ (TTTHDV.), tập thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1992; Ngọn lửa quạnh hiu (NLQH.), tập thơ, Nxb. Trẻ TP. HCM., 1996; Tình yêu và vầng trăng lửa (TY. & VTL.), tập thơ, Nxb. Trẻ TP. HCM., 1997.
(3) TY. & VTL., sđd., tr. 13 – 14.
(4) TY. & VTL., bài Giấc ngủ mùa xuân, sđd., tr. 16 & bài Bài thơ của một thành phố đóng cửa, sđd., tr. 45.
(5) TY. & VTL., sđd., tr. 42 – 44.
(6) TY. & VTL., bài Cho tương lai, sđd., tr. 23.
(7) TY. & VTL., sđd., tr. 58 – 59.
(8) TY. & VTL., sđd., tr. 66 – 69.
(9) TY. & VTL., bài Những sáng mùa đông, sđd., tr. 70 – 74.
(10) TY. & VTL., bài Hi vọng bên cõi chết, sđd., tr. 79 – 80.
(11) Nhiều tác giả, Tiếng hát những người đi tới, Nxb. Trẻ, 1993. Ở đây, tôi chỉ liên hệ đến các nhà thơ và chỉ những nhà thơ thường làm thơ theo thể tự do, có ảnh hưởng mô-tip (motif) này; tôi cũng không đề cập đến các nhà văn hoặc những nhà sáng tác vốn nổi trội hơn về văn xuôi mặc dù cũng có làm thơ, như Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục… Xin thêm một vài dòng vào chú thích này: Tôi biết nhà thơ Trần Vàng Sao, tác giả Bài thơ một người yêu nước mình cùng nhiều tập thơ, sau khi đã thoát li “lên xanh”, anh vẫn cứ là nhà thơ phản kháng trước những bất công, giả dối, nên bị đưa ra Miền Bắc. Ở Miền Bắc, anh lại bị “giam” tại một trại hẻo lánh, bản thảo thơ anh bị tịch thu, tiêu huỷ. Sau Ngày Thống nhất, được về Huế, nhà thơ Trần Vàng Sao vẫn là “nhà thơ dân đen” hay “nhà thơ cùng đinh”. Giai đoạn mới Đổi mới, anh lại xuất hiện trên tạp chí Sông Hương, gây chấn động dư luận bằng bài Người đàn ông bốn mươi ba tuổi kể chuyện mình và nhiều bài khác. Hiện nay, anh vẫn còn sống và vẫn tiếp tục sáng tác tại thành phố Huế.
(**) Xin xem thêm: Trần Xuân An, Giữa vòng tay Tam Kỳ và bè bạn, bút kí, Kỉ yếu 40 năm (1955 – 1995) thành lập Trường Trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ, Quảng Nam – Đà Nẵng, 1995, tr. 58 – 70. Trong bút kí này, nhân vật thầy giáo B. là giáo sư trung học đệ nhị cấp Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ).
(12) TY. & VTL., sđd., tr. 100 – 107.
(***) Tạp chí Đối Diện (hay Đồng Dao, Đứng Dậy), ấn hành từ 1969 đến 1978, do một nhóm linh mục cấp tiến, hoạt động độc lập bên ngoài Giáo hội Thiên Chúa giáo, chủ trương: Chân Tín, Nguyễn Nghị, Nguyễn Ngọc Lan… Tôi không dám đoan chắc về dư luận này: Đây là những linh mục Thiên Chúa giáo muốn thực thi một sách lược hoà hợp, hoà giải dân tộc, chống chế độ Mỹ ngụy và liên hiệp với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam cùng chính quyền Miền Bắc nước ta. 03 linh mục kể trên hiện nay còn sống và thường trú tại TP. HCM..
(13) TY. & VTL., sđd., tr. 116 – 119.
(14) TY. & VTL., bài Chào mừng Nắng Mai, sđd., tr. 124 – 129.
(15) TY. & VTL., bài Gió hoà bình đã thổi & bài cuối tập là Mùa xuân của chúng ta, sđd., tr. 132 – 134 & … 144.
(16) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (1921), Nxb. Tân Việt, bản in 1964, tr. 343. Tôi không khẳng định Trần Trọng Kim viết hoàn toàn đúng. Riêng về khía cạnh này, thật ra, ông đã “lách” khi viết về mâu thuẫn lương – giáo. Xin trích một đoạn tôi đã viết ở một cuốn sách: “Mâu thuẫn giữa Pháp xâm lược – Việt chống ngoại xâm bị tôn giáo “đầu độc” nên chuyển thành mâu thuẫn Việt bên giáo – Việt bên lương! Người Việt bên giáo thù hằn người Việt bên lương hơn thù giặc Pháp, thậm chí tôn vinh giặc Pháp là sứ giả của Thiên Chúa, và ngược lại, người Việt bên lương chủ trương vừa bình Tây vừa sát tả!”. Xin xem thêm tư liệu gốc: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, kỉ đệ tứ – kỉ đệ lục (1847 – 1888), bản dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, 1972 – 1977.
(17) Để rõ hơn, xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản đã sửa chữa, bổ sung lần thứ ba, in vi tính ngày 19. 12. 2003 (trọn vẹn gồm 745 trang [kể cả phần chú thích, phụ lục] và phần ngoài sách gồm 15 trang [một bài thơ viết về Quang Trung cùng các chú thích sử học], cỡ sách 13 cm x 19 cm).
(18) TY. & VTL., sđd., tr. 24.
(19) TTTHDV., sđd., tr. 24 – 25.
(20) NLQH., bài Nhà thơ, sđd., tr. 19 – 20.
(21) NLQH., sđd., tr. 25 – 26.
(22) Jean Paul Sartre (1905 – 1980), Buồn nôn, Phùng Thăng dịch, Nxb. An Tiêm, 1969.
(23) Không chỉ trong thơ yêu đương, thơ tâm trạng riêng, mà bất kì thể loại văn học, báo chí nào cũng thế. Rõ ràng ở Miền Nam hình thành riêng một hệ ngôn ngữ tiếng Việt, mặc dù đất nước chỉ bị chia cắt trong 21 năm. Điều đó có thể nhận ra ngay, khi đọc những ấn phẩm sách báo xuất bản ở Miền Nam trước 1975, và đối chiếu với hệ ngôn ngữ tiếng Việt ở Miền Bắc trong cùng giai đoạn.
(24) TTTHDV., sđd., tr. 17.
(25) TY. & VTL., sđd., tr. 83 – 84.
(26) TTTHDV., sđd., tr. 27 – 28.
(27) NLQH., bài Phút giây vĩnh cửu, tr. 88.
(28) NLQH., bài Đoạn kết tạm thời của một nỗi buồn, sđd., tr. 63.
(29) NLQH., bài Hồi cuối, sđd., tr. 74.
(30) Rabindranath Tagore, Tâm tình hiến dâng (đúng ra là The Gardener – Người làm vườn, 1961), Đỗ Khánh Hoan dịch, Nxb. An Tiêm, 1969.
(31) NLQH., sđd., tr. 92.
(32) NLQH., sđd., tr. 33 – 38.
(33) NLQH., bài Trăng ý, sđd., tr. 42.
(34) Lời “ghi chú” của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ.
(+++) Phụ chú (ngày 9-7-2005): Xin chú thích thêm: 4 câu thơ về lá cờ Mặt trận Giải phóng và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Đó là lá cờ chính thức và chủ yếu ở Miền Nam, trước ngày Hiệp thương Thống nhất (1976). Đoạn thơ ấy trích trong trường ca “Nước non ngàn dặm” của Tố Hữu: “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh, Màu đỏ của đất, màu xanh của trời, Ngôi sao chân lý của đời, Việt Nam – vàng của lòng người hôm nay”. Phải chăng đó là lá cờ ngược (sách lược tạm thời)? hay do vô thức chi phối khi Tố Hữu cấu tứ? Có nên truy kích nhau trong phê bình văn học? Tôi (Trần Xuân An), trong những năm về sau, đã mạn phép chữa nghịch lý lại cho hợp lý hơn: “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh, Màu đỏ hừng sáng [trời rạng?], màu xanh biển ngời, Ngôi sao chân lý của đời, Việt Nam – vàng của tim người hôm nay”. Tất nhiên, bấy giờ cũng như bây giờ, tôi không dám sửa thơ của người khác (nếu không phải bạn bè, thân quen và có trao đổi chân tình) như vậy, nhất là thơ của Tố Hữu (đã vào văn học sử khi ông còn sống). Ý tưởng này với những hình ảnh ấy, tôi đã thể hiện trong một bài thơ của mình vào năm 1976.
TXA.
Đã gửi: (18. 10. HB4)
Ô. Tần Hoài Dạ Vũ.
____________________________
Bài thứ tám
ĐỌC THƠ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
1
Trước Ngày Thống nhất (1975), những năm còn là học sinh trung học rồi sinh viên đại học, mặc dù ở thị xã Tam Kỳ, thành phố Đà Nẵng hay cố đô Huế, thỉnh thoảng tôi vẫn được nghe lén thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường qua Đài Phát thanh Giải phóng. Cùng với một số trí thức, văn nghệ sĩ Miền Nam thuở bấy giờ đang đấu tranh ở nội thành hoặc đã thoát li lên chiến khu, ra Miền Bắc, thường được Đài giới thiệu, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một gương mặt thơ ca tôi chỉ nghe chứ chưa được thấy bao giờ. Chẳng qua, thời anh trực diện đấu tranh ở Huế, tôi vẫn còn quá bé (lại ở tận trong Nam bộ). Năm tôi lên mười (1966), đang ở Quảng Trị, nhà giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “lên xanh” cầm súng chiến đấu.
Sau Ngày Thống nhất (1975) khoảng mươi tháng, bấy giờ tôi đã có thơ đăng trên tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng (*), nên khá mạnh dạn đến 26 Lê Lợi, cơ quan của Hội Liên hiệp Văn học – nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, ghé vào, gửi một chùm thơ 09 bài. Cũng không nhớ rõ, một hoặc hai tháng sau gì đó, lúc Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên đã thành lập, tôi nhận được giấy mời đến để trao đổi về biên tập.
Sau khi gặp nhà thơ Xuân Hoàng, nhà văn Tô Nhuận Vỹ, tôi mới được chuyện trò đôi câu với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có lẽ đêm trước bận thức khuya để viết, sáng hôm ấy anh đến muộn. Đó là lần đầu tiên tôi gặp anh. Sau khi tôi chào các anh để về, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường còn giữ tôi lại, cho địa chỉ, bảo tôi đến nhà anh chuyện trò cho vui. Tôi không ngờ một người có dáng vẻ nghiêm nghị, bấy giờ còn có chút nào khắc khổ nữa, lại cởi mở và dễ thân tình đến vậy.
Từ đó đến nay, gần ba mươi năm, thỉnh thoảng tôi vẫn có dịp gặp anh, khi hội họp, khi đi thực tế do Hội Văn nghệ tổ chức (1976 – 1978), khi gặp gỡ chuyện vãn. Nhiều lần, không chỉ trà lá, mà còn bia rượu nữa, lúc ở nhà riêng của anh và chị Lâm Thị Mỹ Dạ, lúc ở quán xá. Nhưng điều đáng nói nhất, đó là lời anh động viên, khuyến khích tôi sáng tác, giới thiệu thơ tôi trên tạp chí Văn Nghệ Bình Trị Thiên, Sông Hương, và sau này, tạp chí Cửa Việt. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là người đề tựa, cùng nhà văn Xuân Đức cấp giấy phép cho tập thơ đầu tay của tôi (1991).
Bây giờ, tôi lại thử đọc thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, đọc trong những hồi ức về những gì có thể gọi là kỉ niệm ấy. Ấn tượng trong tôi lâu nay về anh, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức Miền Nam tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ và là một nhà văn có làm thơ, trong đó có thơ yêu đương, thơ tâm trạng riêng. Nhưng qua hai tập thơ được tuyển chọn lại, cùng một số bài được anh sáng tác sau hai tập ấy, trong Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (tập 4) (1), tôi có cảm giác vừa hụt hẫng về mặt này, vừa tràn trề về mặt kia.
2
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết về anh trong những cuộc rượu: “Mỗi lúc như vậy, giá có cái máy ghi âm, chép ra chắc sẽ có hàng nghìn trang sách sinh động với một giọng văn hấp dẫn đặc biệt. Điều ấy chứng tỏ rằng, tri thức cuộc đời và sự nghiền ngẫm nội tâm trong anh là vô cùng phong phú. Những bài tuỳ bút anh viết ra mới chỉ là cái phần bề nổi của chính anh mà thôi” (2). Anh Nguyễn Trọng Tạo còn cho rằng: “Phải chăng Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng làm thơ bằng máu của mình, làm thơ như “viết di chúc để mà chết”…”, sau khi đã khẳng định “nhà thơ như nghe thấy được tiếng nói của chính mình từ thế giới bên kia vọng lại, và thế là hai thế giới âm dương cùng hoà quyện vào nhau” (2). Ở bài viết ấy, Nguyễn Trọng Tạo chỉ nhận định về tập thơ thứ hai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Người đi hái phù dung (1995).
Thú thật, tôi không có cái may mắn như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, được nghe thấy “phần bề sâu” của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, mặc dù cũng có dăm ba lần bia rượu với anh. Anh Nguyễn Trọng Tạo không nói gì đến mảng thơ kháng chiến chống Mỹ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Các anh Hồ Thế Hà, Ngô Minh cũng thế. Chỉ có nhà thơ Thanh Thảo lướt qua mảng này, và khẳng định bài thơ tiêu biểu nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường về đề tài chống Mỹ là Tôi đi trên những con đường rừng cũ (1971 [?]), nhưng rồi cũng xoáy sâu về mảng Người đi hái phù dung.
Tôi hơi ngạc nhiên về sự thể đó.
Theo ấn tượng chủ quan của riêng tôi về Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh có nhiều, rất nhiều tâm trạng, bao nỗi suy tư về cuộc kháng chiến chống Mỹ mà anh trực tiếp tham gia. Từ 1963, anh đã đấu tranh ở nội thành. Sau đó 03 năm (1966), anh thoát li “lên xanh” hẳn, cho đến Ngày Thống nhất (1975), anh mới về lại Huế.
Thật ra, sau gần 30 năm thống nhất Đất nước, đến lúc này, cũng cần nói cho công bằng: Số lượng trí thức Miền Nam như anh (tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, bảo vệ thành công luận văn cử nhân triết học tại Đại học Văn khoa Huế, giáo sư trung học Quốc Học Huế), tham gia kháng chiến chống Mỹ không phải là nhiều, và lại là nhà văn, nhà thơ nữa, thì càng quá hiếm quý. Do đó, với cái nhìn chủ quan có tính trực giác về anh, tôi nghĩ mảng thơ Người đi hái phù dung kia, phần lớn cũng chỉ là hệ quả của bao tâm trạng, bao nỗi suy tư trong quãng đời kháng chiến, nhất là thời hậu chiến mà thôi. Hiểu một cách nào đó, Người đi hái phù dung vừa là phần bề sâu của tâm tư anh thời trẻ mà anh đã từng gạt qua, phủ định nó để lên chiến khu, nay anh phục hồi và thăng hoá lại nó, nhưng đồng thời cũng chỉ là “bề nổi của tảng băng chìm” (theo lối nói của Ernest Hemmingway), mà phần chìm của tảng băng ấy chính là tâm trạng, suy tư trong thời kháng chiến chống Mỹ, và về sau, những lúc ngẫm nghĩ lại thời kháng chiến ấy, nhưng chủ yếu vẫn là về thời hậu chiến. Nói rõ ra, ở giai đoạn hoà bình về sau, có lẽ anh không thể nói bằng ngôn ngữ trực tiếp, bộc trực, không thể “nói thẳng, nói thật” về thời kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là về hiện thực xã hội hậu chiến, nên chỉ biết lặng lẽ buồn. Ngay việc bị hạn chế tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã là nỗi buồn quá lớn! Nhưng anh cũng chỉ đòi cho được mỗi một “quyền được buồn”. Hoàng Phủ Ngọc Tường tự đề từ: “Mỗi người chỉ thực là chính mình trong căn nhà của nó. Thơ cũng vậy. Thơ cần phải trở về căn-nhà-ở-đời của nó là nỗi buồn. Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn” (3).
Không kể do nguyên nhân thể chất như bệnh tật, suy nhược hầu như không có ở Hoàng Phủ Ngọc Tường (anh bị bệnh sau khi đã tái bản Người đi hái phù dung), thực chất của trạng thái tâm lí buồn với các cấp độ, sắc thái của nó (buồn bực, buồn bã, buồn đau…) chung quy là hệ quả tâm lí của con người nói chung và cũng của riêng anh, trước thực tại bất như ý, sự đổ vỡ của niềm tin, lí tưởng, hi vọng, ước muốn… Có thể khái quát thành 03 dạng buồn: buồn về mình, hoàn cảnh riêng tư; buồn về kiếp người nói chung; và buồn về hiện thực kháng chiến – xã hội hậu chiến. Nói gọn hơn: buồn riêng tư, buồn kiếp người và buồn đời.
“Quyền được buồn” có một thời gian khá dài, bị cấm ngặt, chỉ trừ một số nét buồn bi tráng. Bởi lẽ, buồn là uỷ mị, là làm giảm sút tinh thần chiến đấu. Buồn bị quy vào phương diện thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa của bản thân ai đó đã “có vấn đề”, và cũng bị quy vào phương diện “bôi đen chế độ” (!), “chống đối chế độ” (!). Nói theo cách nói của cán bộ tuyên truyền, “cách mạng là ngày hội của quần chúng”, không có lí do gì để buồn! Thật là “tả” khuynh quá đáng, suy diễn và quy chụp đến mức đáng sợ! Từ một tiên đề không sai, người ta lại suy diễn ra những hệ luận chỉ với mục đích thiển cận và nhằm trói buộc những người sáng tạo!
Do đó, cần nói thẳng, nói thật thêm một điều, “quyền được buồn” còn là quyền được cân bằng tâm lí bình thường của con người và của văn chương, sau một thời gian dài xã hội đã vui, phải vui, vui thật cũng có, vui giả cũng khá phổ biến.
Ở nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua 02 tập thơ của anh, cho dù chia làm hai mảng khác nhau, thơ kháng chiến chống Mỹ và thơ yêu đương, tâm trạng riêng, vẫn có một mối tương quan nhất định và dĩ nhiên.
3
Những dấu chân qua thành phố
Để tìm ra được chân dung tâm hồn, con người sâu thẳm đích thực của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, phải bắt đầu từ tập thơ này.
Năm 1963, phong trào Phật giáo trước đó và ở thời điểm đó dâng cao hào khí bi tráng, chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Bấy giờ, nhà giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường mới 26 tuổi. Năm anh 28 tuổi (1965), Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng, tôi chỉ là thằng bé lên chín, từ Quảng Trị vào Huế chơi, nào biết anh là ai trong đoàn biểu tình, chỉ thấy biểu ngữ nâng cao, bàn thờ Phật “xuống đường”, trầm hương nghi ngút và chuông mõ vang lên khắp các đường phố Huế để chống Thiệu – Kỳ (4). Suốt 03 năm “tham gia phong trào yêu nước của sinh viên học sinh và trí thức Huế với tư cách tổng thư kí Tổng Hội Sinh viên Huế” (5) (1963 – 1964) và đơn thuần là một giáo sư trung học đệ nhị cấp tại Trường Quốc Học (1964 – 1966), Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn đang là một trí thức trẻ xấp xỉ tuổi ba mươi. Rất tiếc là thơ anh không có bài nào trực tiếp ghi nhận những thao thức, trăn trở, những dấn thân hào hùng của anh, bạn bè anh và nhân dân Huế trong thời đoạn lịch sử ấy. Điều đó, chỉ được anh hồi ức lại trong 05 năm về sau. Có thể đọc thấy qua một bút kí anh viết về anh và Trịnh Công Sơn (6). Nhưng cố nhiên đó không phải là thơ. Riêng Năm năm ta đi, cũng được viết vào năm 1971:
“… Chắc bây giờ trên những lối đi xưa / Dấu giày ta đã đọng vết rêu mờ / Đã ngủ yên dưới hàng cây im lặng / Bước ta đi giữa ngày tháng ưu tư // Khi ta nhớ, hương sầu đông đầy ngõ / Khi ta yêu, phượng thắm dấu môi son / Thù hận chín giữa phố hè lửa đỏ / Tình yêu ta cùng mọc giữa căm hờn // Chào những bầy hoa ngũ sắc ven đường / Cười sặc sỡ bên khung trời thơ ấu / Chào giã từ con cầu trắng đêm sương / Ta đi qua giữa tâm hồn giông bão // Thành phố tắm đời ta trong sắc biếc / Nên cỏ hoa mang đầy dấu tâm hồn / Máu đã viết nên nghìn trang sử đẹp / Nuôi đời ta khôn lớn giữa đời dân …” (7).
Hoàng Phủ Ngọc Tường bấy giờ không thể không trải qua những “ngày tháng ưu tư”, “thù hận” Diệm, Cẩn – Thiệu, Kỳ và đế quốc Mỹ trong “lửa đỏ” phố thị, đồng thời “tình yêu” Đất nước dâng lên với ngọn triều “căm hờn” của dòng sông Hương vốn phẳng lặng. Với “tâm hồn giông bão”, người trí thức trẻ ấy đã thực sự dấn bước trên con đường lịch sử của một phân số nhân dân hướng về Mặt trận Giải phóng và một phân số khác, đông đảo hơn, quyết tâm “cách mạng quốc gia”, đơn thuần là cách mạng dân tộc, dân chủ và dân sinh, không thuộc đảng phái nào. Tuy khác chính kiến, nhưng tất cả đều cùng tuần hành chung dưới rừng cờ biểu ngữ.
“… Lời đất nước giương trùng trùng biểu ngữ / Người đi lên, tóc lộng nắng như cờ / Đường áo trắng hôm nay thành sông lửa / Nổi đuốc thiêng nhìn rõ mặt quân thù …” (7).
Hiện thực được phản ánh khá chân thực. Tuy nhiên, phải thấy rằng không một dòng nào anh nhắc đến phong trào đấu tranh Phật giáo. Nếu đọc kĩ, ta cũng chỉ phân vân hỏi rằng, phải chăng đây là câu thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường phản ánh một cách hết sức mơ hồ về những toán lính ngụy đang lái xe Dodge, GMC. đi “hốt” những bàn thờ Phật “xuống đường” đấu tranh chống chính quyền Thiên Chúa giáo do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu (4) ?
“Không thể mặc cho loài bán nước / Vung bàn tay cướp đoạt những thiêng liêng” (7).
Phải chăng một trong những lí do nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo sư triết học Trường Trung học Quốc Học Huế, đã lên chiến chu chống Mỹ chính là để bảo vệ Phật giáo trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền Thiên Chúa giáo Diệm – Thiệu?
Dẫu xuất phát từ nguyên cớ trực tiếp là Phật giáo bị đàn áp hay nguyên nhân cơ bản là khát vọng độc lập, trong không khí đấu tranh có thật đó, chàng tuổi trẻ trí thức Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quyết tâm lên chiến khu. Ngày lên đường, ở trên “xanh”, anh chỉ có thể nhìn ngắm khắp cả Tổ quốc bằng cái nhìn của tâm hồn và ước vọng thống nhất. Hành trang (8) mang theo của anh có gì?
“Tôi trèo lên đỉnh Trường Sơn / Nhìn thấy quê hương nguyên hình chữ S / Thấy con sông Hồng đỏ máu ra khơi / Thấy mũi Cà Mau nhọn vút chân trời // Đêm giã từ thành phố / Ánh đèn ngoại ô / Hành trang cũ: / Niềm kiêu hãnh lâu đời / Và nắm cơm gian khổ chuyền tay / Từ những chuyến đi xưa còn mãi đến hôm nay”.
(Huế, ngày lên đường, 05. 1966)
Hoàng Phủ Ngọc Tường quyết tâm nối tiếp công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của bao thế hệ trước, qua suốt bốn nghìn năm lịch sử. Bài thơ còn vẽ nên một dáng đứng tuổi trẻ hào hùng trong mạch sử thi truyền thống.
Chính với ước vọng thống nhất, Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc hoạ hình tượng người lên đường, cầm súng, qua những câu đối thoại giữa người thầy giáo với học trò về bản đồ Việt Nam chỉ còn một nửa, trong một tiết học địa lí. Và chính sử kí đã thôi thúc nhà giáo ấy lên chiến khu như Nguyễn Trãi ngày xưa. Niềm thôi thúc ấy càng rõ hơn khi cuộc đối thoại xoáy vào một vấn đề lưu cữu (thù hận lương – giáo, thực chất là giữa người Việt yêu nước với giáo dân bị thực dân, đế quốc lợi dụng) suốt cả một trăm mấy mươi năm qua trong Mùa Giáng sinh 1966:
“… Em hỏi thầy: Bom Mỹ / Có giết trẻ con không? Rằng: Làng quê khói lửa / Nào thương Chúa Hài Đồng / Em nhớ bày máng cỏ / Ở trong hầm ca-nông …” (9).
Hành vi rất chính trị đó, cũng không tránh được sự sát hại của lính Mỹ đối với mẹ của người học trò. Điểm đỉnh của câu chuyện bằng thơ đọng và mở ở câu kết, neo vào lòng người đọc: “Đừng hỏi nữa em ơi! / Thầy lên đường đánh Mỹ”. Phải trả lời cho thế hệ học trò bằng hành động lên đường, cầm súng! Bài Câu hỏi có thể được quần chúng nhân dân nhớ lâu, nhớ sâu bởi các chi tiết tinh lọc và vần, chứ không phải bằng ngôn ngữ thơ. Khác với nhà thơ liệt sĩ Ngô Kha (cũng là giáo sư trung học như anh), mặc dù hai người là bạn rất thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường từ độ mới lên chiến khu ấy, đã cố gắng vứt bỏ hết những ngôn từ bay bướm, tinh tế, giàu hình ảnh với sự chạm trổ, khảm giát lóng lánh một cách đài các, cầu kì, khó hiểu trong thơ.
Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tự biểu hiện chính mình qua hình tượng người thầy giáo sử địa ấy.
Hoá ra, qua bài Câu hỏi và bài Hành trang, ta thấy sự chọn lựa con đường đấu tranh, việc lên chiến khu rừng thẳm đầy gian khổ của anh quá đỗi đơn giản và anh dễ dàng thích nghi đến thế. Tôi không thể tin như vậy. Nhưng tôi tin chắc một điều, có một thời kì, vì trách nhiệm trước người đọc và vì yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, nhà thơ cần phải “lột xác” thật nhanh, phải giấu đi những trăn trở về tư tưởng, những thử thách của bao khó khăn gian khổ. Chính Trần Độ, về sau, khoảng năm 1976, cũng bảo thế trong một cuộc họp mặt người viết ở 26 Lê Lợi, Huế: Trí thức đã trăn trở, “lột xác” từ 1945 hoặc từ 1954 kia, chứ không đợi đến những năm sau này; cho nên, chỉ có lao vào cách mạng chứ không trăn trở, thao thức “chọn đường” gì nữa! Phải chăng từ mười năm trước tư tưởng chỉ đạo đã thế, nên thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường khuyết đi những mảng rất lớn. Hầu như sau Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên (1960), rất ít bài thơ trăn trở, thao thức “chọn đường” được đăng tải. Thậm chí, có thể bị khiển trách, bị làm kiểm điểm nếu còn trăn trở, thao thức “chọn đường”! Do đó, tôi rất ngạc nhiên nhưng lại hiểu ra ngay, sao mảng thơ “lên đường” này của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại sơ lược đến thế. Tâm hồn anh, tư tưởng anh không thể “sơ lược” như vậy.
Có lẽ phải ngẫm nghĩ lại, ngẫm nghĩ sâu hơn về ý thức lịch sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong quá trình bản thân anh đã dấn thân, tham gia vào công cuộc chống chính quyền Thiên Chúa giáo của Diệm – Thiệu và đế quốc Mỹ. Tôi thấy đây là một trong những trọng điểm trong niềm thao thức, trong quyết tâm của anh. Ở bài Những dấu chân qua thành phố (10), anh viết:
“Như thời gian gió cuốn triều dâng / Lịch sử đã qua đây trăm lần / Những người đi sau nối theo người trước / Thành phố này in dấu những bàn chân // Từ những năm xưa đánh Tây giữ nước / Hoả mai nón dấu, súng thần công / Đến bây giờ trên mặt thành cỏ biếc / Đá trăm năm còn tạc dấu chân trần // Nắng vẫn chiếu huy hoàng trên cẩm thạch / Những bàn chân đạp đổ ngai vàng / Đất rung chuyển nhịp chân vệ quốc / Vòm cửa ô, kèn Nam tiến còn vang …”.
Bằng hình tượng dấu chân lịch sử, phải chăng anh đã hình dung lại thành cổ Phú Xuân, nơi Nguyễn Huệ của phong trào Tây Sơn đã đánh tan quân Trịnh để tiến tới thống nhất Tổ quốc? Cũng với hình tượng dấu chân lịch sử ấy, anh cảm nhận lại cuộc kinh đô quật khởi 23 tháng 5 Ất dậu (1885); và anh tiếp tục hình dung, cũng bàn chân lịch sử ấy, vào thời Cách mạng tháng tám (1945), đã đạp đổ ngai vàng, buộc vua bù nhìn Bảo Đại thoái vị.
Rất tiếc là khi viết Tôi đi trên những con đường rừng cũ (11), anh không nhớ lại Tân Sở (Cam Lộ) với tuyến đường thượng đạo Bình Định – Nghệ An – Hưng Hoá, thời Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và phong trào Cần vương.
Ở Trở lại đất Hùng (1975) (12), Hoàng Phủ Ngọc Tường suy nghĩ về tiếng trống đồng (từng khiến sứ giả nhà Nguyên bạc tóc khi nghe), suy nghĩ về 99 ngọn núi Nghĩa Lĩnh (hình tượng đàn voi trăm con; một con voi trong đàn voi ấy đã ngoái đầu ra sau, nên bị chém đầu). Anh lại suy nghĩ về phút giây Nguyễn Trãi cùng người cha là Nguyễn Phi Khanh chia tay nhau ở Lạng Sơn, cột mốc số 0 của bản đồ Đất nước, trong bài Ngọn cỏ làm chứng (13):
“Nơi đây một người con trai lau nước mắt từ biệt cha / Nỗi riêng chung, cỏ hoa làm chứng đến bây giờ / Từ cây số không, bắt đầu những gì ta có / Nên lịch sử mỗi đời người cũng bắt đầu từ đó”.
Và cũng theo mạch sử thi ấy, anh chọn cho mình một chỗ đứng, ngay trên lầu hoàng cung nhà Nguyễn, để Lại nhớ về chiến khu xa thẳm (14), khi Đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất, sau cuộc chiến tranh dài dằng dăïc (1858 – 1975), mà trong đó, giai đoạn kháng chiến chỉ kể từ Cách mạng tháng Tám là quãng thời gian chính nhà thơ đã được lớn lên, tham gia chiến đấu.
Cũng từ cảm hứng và ý thức lịch sử, cộng với suy nghĩ về thi sĩ cộng sản người Pháp Paul Éluard, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết từ năm 1969:
“Pha máu làm mực / Kê lịch sử làm bàn / Trải đời tôi làm giấy / Viết tên Người Việt Nam” (15).
Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ kháng chiến với trái tim một người yêu nước mà còn bằng bộ não của một người cộng sản nơi anh.
Cảm hứng, ý thức lịch sử và ý chí cộng sản chủ nghĩa là trạng thái tinh thần chủ đạo, chung nhất của những nhà thơ Miền Bắc và những nhà thơ Miền Nam tham gia kháng chiến chống Mỹ dưới ngọn cờ của Mặt trận Giải phóng, nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, có sự nổi trội, đậm đặc hơn.
Cũng không thể không ghi nhận sự thành công và nhất là tấm lòng nhà thơ đối với quê nhà. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn viết một chùm thơ về một vùng đất Quảng Trị đã được giải phóng từ 1972. Trong đó, bài thơ Bàn tay trên trán (16) viết về người mẹ Gio Linh có cái tên rất Việt cổ: Mẹ Nậy. Đó là một bài thơ rất cảm động. Cũng là cảm hứng sử thi về Đất nước, nhưng ta còn thấy được tuổi thơ của chính nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trên đất đai Quảng Trị quê hương bản quán qua những câu thơ rất gần gũi:
“… Như quên đi mình đã lớn nhiều / Với thời gian ồn ào biến động / Con gặp lại trong cơn mê nóng bỏng / Một tuổi thơ chân đất chạy khắp làng / Và cánh đồng xưa nắng chang chang / Lũ chuồn chuồn bay qua những tháng ngày óng ả / Như quên mình đã lớn nhiều / Với đất nước những năm lo nghĩ / Vầng trán con dưới bàn tay mẹ / Lại hiện về giấc ngủ thơ ngây …”.
Cảm hứng – ý thức lịch sử, hay có thể gọi là tình tự dân tộc, quê hương, Đất nước và ý chí kháng chiến, quả thật, đã xuyên thấm toàn bộ tập thơ Những dấu chân qua thành phố của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ở bất kì bài nào, với chủ đề gì, kể cả chùm thơ khi anh viết ở Bắc Kinh (Trung Quốc), Cáclôpherơ (Bungari)…
Về mảng thơ kháng chiến chống chế độ Thiên Chúa giáo Diệm – Thiệu và đế quốc Mỹ, giải phóng Miền Nam, thống nhất Đất nước của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, nếu từ một góc độ văn học khác để tiếp cận, ta sẽ không thấy một dấu vết bi quan, dao động nào. “Quyền được buồn” đã được nhà thơ giấu kín vì ý thức trách nhiệm.
Ngoài ra, nếu cần thiết phải nói đến lập trường, tâm thế sáng tác trong tương quan với hiện thực chiến tranh chống Mỹ ngụy mà nay đã trở thành lịch sử, thì cũng đã đến lúc, sau 30 năm thống nhất Đất nước. Phải chăng không thể để muộn hơn? Ở một số bài thơ khác, nếu đọc bằng đôi mắt sử học, người ta còn thấy anh miêu tả hiện thực với thái độ địch – ta quá “quyết liệt” bằng thủ pháp cường điệu! Ở đây, tôi không nói đến Diệm – Thiệu và các tổng thống đế quốc Mỹ, tôi chỉ muốn nói đến những người quốc gia, dân tộc chủ nghĩa, yêu nước nhưng không cộng sản, không thể vô thần một cách phi truyền thống. Dẫu sao, nếu nói theo cách của Chế Lan Viên sau này, cũng cần phải “trừ đi”, để nhận thức hiện thực lịch sử về giai đoạn ấy trong thơ ca cho thật đúng đắn, công bằng. Tuy nhiên, như ở một bài viết tôi đã viết, thơ ca không phải là sử kí. Thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực bên ngoài mà chủ yếu là tấm gương phản ánh tâm thế nội tâm của nhà thơ trước hiện thực ấy (**). Nhà thơ lại đang trực diện đấu tranh với quân bán nước Diệm, Thiệu và đế quốc Mỹ, vì vậy, tất nhiên trái tim nhà thơ phải sục sôi căm thù, không thể có sự bình tâm cần thiết của nhà sử học. Không thể đòi hỏi nhà thơ phải có cái nhìn hai phía, nhìn từ ta sang địch và ngược lại, nhìn từ địch sang ta, để có nhữngï nhận định khách quan, khoa học. Nếu đòi hỏi như vậy, thế giới này không còn một nhà thơ nào cả! Phải vậy chăng? Tôi tin rằng cuộc đời vốn đa dạng, nhiều vẻ (với cái nhìn bao quát đồng đại), và dân tộc cũng như nhân loại không chỉ tồn tại vài ba thế hệ (với cái nhìn xuyên suốt lịch đại). Vấn đề là hiện thực chiến tranh 130 năm (1858 – 1975 – 1989), đặc biệt là 30 năm (1945 – 1975) khốc liệt nhất, hào hùng nhất ấy, dù thế nào đi nữa, cũng đã và đang hình thành nên một giai đoạn văn học trên toàn cõi Việt Nam nước ta với tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Và hiện thực chiến tranh ấy sẽ mãi mãi còn được vang vọng, tái hiện, tái tạo trong văn học tương lai, như ta và mãi mãi sau này, các thế hệ vẫn còn suy tư, chiêm nghiệm về thời đại vua Hùng; về thuở đánh bại đế quốc Nguyên – Mông; về thời Lê Lợi – Nguyễn Trãi cùng nhân dân viết Bình Ngô đại cáo bằng máu và khát vọng độc lập, tự do; về thời mở đất phương Nam và đau thương chinh chiến do Trịnh – Nguyễn phân tranh, cùng vai trò lịch sử của Quang Trung, Gia Long trong sự nghiệp thống nhất non sông Đàng Trong – Đàng Ngoài… Nhưng cho dẫu nhìn xa, nhìn rộng là vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường và những nhà thơ, nhà văn đồng đội Giải phóng quân của anh vẫn mãi để lại trong văn học sử những gì đã viết, không thế lực nào có thể bôi xoá được, mặc dù trong đó, một số trang viết chỉ còn có giá trị như những tư liệu.
4
Người hái phù dung
Hình như có khá nhiều năm sau Ngày Thống nhất (1975), Hoàng Phủ Ngọc Tường thi thoảng mới làm thơ. Có lẽ hơn mười năm, anh chuyên chú với thể văn bút kí, nhất là sau thành công của Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đặt tên cho dòng sông (1984)… Rất tiếc là ở cuối mỗi bài thơ, không phải bài nào anh cũng ghi ngày tháng năm và nơi sáng tác để có thể xác định, chứ không chỉ là phỏng đoán.
Người hái phù dung là tập thơ tích đọng lại sau hơn 20 năm (1976 – 1997). Ở Tuyển tậâp, tập 4, gộp vào phần Người hái phù dung, còn một số bài thơ khác, được viết vào năm 2001. Thời điểm muộn nhất là cuối mùa đông năm Tân tị, 25. 12. 2001.
Người hái phù dung, mảng thơ yêu đương và thơ tâm trạng riêng tư (xin được tạm gọi như thế), trước hết là vẻ đẹp chóng tàn của hiện thực cách mạng xã hội ở Đông Âu và Liên Xô. Phải chăng, theo anh, đó cũng là vẻ đẹp mong manh, thoắt thắm thoắt phai của loài hoa phù dung?
Mặc dù tâm trạng trong bài thơ mang tên Bài ngâm “đùa chơi” (17) chỉ có ở anh vào năm 1991, hoặc tâm trạng đó vốn đã có trước (kể từ 1885) nhưng chỉ được anh thể hiện vào năm 1991 ấy, năm có sự kiện Liên Xô sụp đổ, sau khi một loạt nước thuộc hệ thống chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tan hoang. Vài dòng chữ này, tôi viết về anh, cũng chỉ là cảm nhận phỏng đoán trên cơ sở văn bản nghệ thuật là phần thơ thứ hai của anh.
Bài ngâm “đùa chơi”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đề tặng Irina Zisman, không thuộc tập thơ Những dấu chân qua thành phố (1976), mà ở tập Người hái phù dung (1995 & 1997). Tự bài thơ đã toả ra hết những cung bậc suy tư, tình cảm trong tâm trạng anh, một trí thức yêu nước đồng thời là một đảng viên cộng sản, cho dẫu anh thuộc vào những người trí thức được kết nạp Đảng rất muộn.
“Đùa thôi nhé, thiên đường mộng ảo / Thế giới vỡ tan ngoài chân mây / Cầm giấc mơ xanh vàng tím đỏ / Ngoảnh lại nhìn nấm mọc đầy tay // Ta đi hết một thời trai trẻ / Tìm thanh gươm nghĩa khí nghìn thu / Đùa thôi nhé sắc cỏ vàng trên mộ / Anh hùng xưa biệt dấu sương mù // Và tất cả những điều đã nói / Bằng con tim máu nóng dâng trào / Cũng đùa thôi, nhớ chi hoài mệt óc / Chuyện nói cười một thuở gian lao // Ta tìm lại hình hài hoá bướm / Chút tự do quả thực trên đời / Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng / Núi thông nhiều, ta hãy rong chơi // Chú tiều ơi, chú tiều xưa cổ / Lời du ca lảnh lói gọi ta về / Cuộc phong trần ta may còn hồ rượu / Để cùng người kết bạn sơn khê // Tiều rằng đã từ lâu chẳng dại / Kìa như tranh vân cẩu trên trời / Những tấn kịch thánh thần sa nước mắt / Thế gian này cũng chuyện đùa thôi… // Còn cho ta một trời mây bay / Một vầng trăng soi sáng mặt mày / Mai chú lại lên đồi hái củi / Ta về rừng gối đá ngủ say” (17).
Phải chăng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cười cợt hết thảy một cách đau xót, buồn bã, trước sự sụp đổ hầu hết các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, ngay cả “thành trì” Liên Xô, và trước tình trạng ở 03 nước rưỡi còn lại, chủ nghĩa xã hội đã chuyển qua kinh tế thị trường trong lộ trình hoà nhập với thế giới tư bản chủ nghĩa? Anh chỉ biết quay về với Lão Trang qua hình tượng chú tiều xưa cổ, tìm lấy tự do cá nhân theo tiêu dao du và tề vật luận trong Nam Hoa kinh, với giấc mộng “không biết Trang hoá bướm hay bướm hoá thành Trang”! Thế giới hiện thực này, đối với anh, cho dù dụi mắt bao lần, anh cũng thấy rõ là y hệt trên trời cao, mây nhẹ như là áo trắng, bỗng chốc hoá thành chó đen, trong thơ Đỗ Phủ (“Thiên thượng phù vân như bạch y / Tu du hốt biến vi thương cẩu”).
Dẫu cho thế cuộc ra sao, người đọc cũng thấy được Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà thơ đã từng dám phản kháng, quyết tâm dấn thân theo sự chọn lựa của mình với ước muốn chất chứa tất cả Đất nước và nhân dân vào trái tim mình, theo một lí tưởng đại đồng bao năm đeo đuổi mà bây giờ anh tự trào là “đam mê hoang tưởng”. Hẳn anh cũng tự nhận thấy thế, khi những câu kết bài thơ gợi ta liên tưởng đến Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi (“Côn Sơn có suối đàn cầm / Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi…”):
“… Còn cho ta một trời mây bay / Một vầng trăng soi sáng mặt mày …”.
Dẫu sao, anh cũng không phải rơi vào bi kịch Huyền thoại Sisyphe (1942) của Albert Camus (1913 – 1960): hết lòng hết sức lăn tảng đá lên núi, rồi lại hạnh phúc (!) buông tay, cho tảng đá rơi xuống chân núi, và lại tiếp tục như bi kịch dã tràng, như bi kịch loài người. Huyền thoại Sisyphe được Bùi Giáng phỏng dịch nhan đề là Xe cát biển Đông!
Hình ảnh con dã tràng cũng được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc đến trong bài Lời ngu ngơ của một gã mù chữ (18). Hình như đó là một bài thơ thể hiện một ước muốn, bằng một thứ ngôn ngữ mới của trái tim anh, anh nhận thức lại thế giới của riêng anh và cả thế giới của loài người, như thể sau một lần hành tinh này lại được tái tạo.
“Và khi thế giới được tái tạo trong ngôn ngữ mới / ta đọc hết nét ngu ngơ trên biển / của con dã tràng tiền sử / mê mải / viết / tên em”.
Điều đó, anh đã chiêm nghiệm, trong bài Gửi cho người (19):
“Tài hoa cũng chuyện đùa chơi / Làm sao thưa hết một lời yêu thương / Anh đi tìm khắp thiên đường / Chỉ còn một đoá vô thường gửi em”.
Nỗi đau “vỡ mộng” ở anh, tôi đoán rằng, không phải đến 1991, mới oà vỡ thành Bài ngâm “đùa chơi”, mà từ lâu rồi, trước đó… Phải chăng đây là những gì anh đã giấu kín trong tập Những dấu chân qua thành phố? Đúng là chùm thơ lục bát có tên chung Đoản khúc ở rừng (20), thể hiện những thoáng buồn rất bình thường trong những tháng ngày đang cầm súng trên Trường Sơn ở các chiến khu Trị – Thiên. Đó là nỗi buồn ngay sau ngày rời Huế lên đường kháng chiến: “Hoa nào nở buổi lâm hành / Con chim nào hát ngày anh lên đường / Đêm đông nghe đổ mưa nguồn / Nghe thời gian xoã sợi buồn xuống vai” (20). Đó là nỗi nhớ về người yêu đã xa, phía dưới miền xuôi phố thị kia: “Xa rồi, em đã như mây / Vùi trong trí nhớ những ngày gấm hương …” (20). Đó là tâm trạng người kháng chiến ở chiến khu nhớ về thuở nồng thơm yêu dấu đã không còn vết tích kỉ niệm trong trí nhớ ai đó: “… Vỗ tay vách đá vọng âm / Nhớ niên hoa, chợt bâng khuâng nụ cười” (20). Nhưng những bài thơ thương nhớ, buồn bã và luyến tiếc bâng khuâng ấy một thời bị “niêm phong” giấu kín, không thể in được trong tập Những dấu chân qua thành phố (1976). Gần đây mới có thể in ở Người đi hái phù dung (1997). Những cảm xúc ấy giả định không có ở người kháng chiến, mà chỉ vui vẻ, hồ hởi thôi, thì mới là máy móc, bất bình thường. Điều đáng chú ý, chính là nỗi đau “vỡ mộng” chăng? Trước hết là thực tế núi rừng gian khổ, đói cơm nhạt muối, sên vắt, sốt rét, tất nhiên không phải là sách vở trong thư viện đại học. Khi đã quen với gian khổ như thư sinh Nguyễn Trãi ngày xưa quen chịu đựng với sơn lam chướng khí, anh lại tự đương đầu với nỗi buồn có chiều sâu nhận thức và “vỡ mộng” chăng? Với sự trải nghiệm, quan sát của bản thân, tôi tin ai cũng có thể chịu đựng được gian khổ, nếu họ có ý chí, nghị lực và khát vọng cao cả. Hoàng Phủ Ngọc Tường có thừa những cái ấy, sao anh vẫn buồn đến thế này?
“Thôi em xa thẳm Trường Sơn / Ngày xưa anh vẫn cô đơn đã thường / Đêm qua nằm nhớ mưa nguồn / Con chim tắt lửa kêu buồn mấy năm // Thôi em ròng rã suối khe / Anh về mắc võng nằm mê đợi người / Đêm qua nhớ lũ đười ươi / Lang thang rũ một trận cười trong mây” (21).
Có bao giờ ta nghe nói đến hay tận mắt chứng kiến “rừng cười” với những cơn dịch cười vô nghĩa lí, kéo dài đến kinh hoàng, sởn gáy? Đó còn là một phủ nhận sự vô nghĩa lí của chiến tranh giữa con người với con người, nước này với nước kia? Và còn gì nữa chứ không chỉ thế…
Điều tôi cảm nhận về Bài ngâm “đùa chơi” phải chăng vốn có cơ sở như thế?
Thôi em cảm tạ chờ mong
Ngày anh đi hái phù dung chưa về
Đêm qua hương đã tàn mê
Mày ai còn dấu trăng thề như in (21).
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà thơ suốt một đời đi tìm cái đẹp mong manh và chóng tàn phai? Và ai là người chung thuỷ đợi chờ? Phải chăng lòng chung thuỷ mới vĩnh cửu (trong ý nghĩa tương đối), còn nhan sắc vốn chóng tàn phai? Không phải anh không khát vọng vĩnh cửu. Thực ra, hơn ai hết, anh quá yêu vĩnh cửu và luôn luôn cháy bỏng khát vọng về cái đẹp vĩnh cửu (chẳng hạn như nhan sắc cùng thuỷ chung, mãi mãi không bao giờ héo úa, phản bội). Có điều, sao anh lại buông ra tiếng thốt như lời ngăn, lời khuyên “thôi đừng hoài công” với những giá trị mà nhan sắc cùng thuỷ chung chỉ là một trong những giá trị đó. Bàn tay lao động ư? Tuổi trẻ ngày xanh ư? Con người nhân văn ư? Thôi, chẳng còn gì! Ngay trò chơi, cuộc rượu tình bạn cũng tàn! Trường Sơn kháng chiến ư? Chờ đợi con người lí tưởng đích thực như hoài vọng, như nghinh vọng ư, mặc dù để rồi thất vọng mà thôi, cho dù ý thức hoài vọng, nghinh vọng con người lí tưởng đích thực (21) cũng là một giá trị?
Phải chăng Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn thông qua những hình ảnh cụ thể để nói đến ý niệm phổ quát về cõi sống mong manh, dâu bể (“thương hải biến vi tang điền”; “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”), mà Nguyễn Du gọi là “cõi người ta” này? Cho dù thời gian và vật chất trong ý niệm là vô thuỷ vô chung, vô cùng, vô tận, nhưng ở dạng cụ thể, ngày tháng như vó ngựa câu qua cửa sổ, kiếp người, kiếp hoa chỉ là hạt bụi trong bão gió. Nhưng vĩnh cửu và chóng tàn là hai mặt của một chỉnh thể nhận thức – khát vọng: biết rằng tất cả những gì ta thấy được đều chỉ là phù dung, phù du nhưng làm sao cấm được lòng ta khát khao vĩnh cửu tuyệt đối trên trần gian này!
Rốt lại, thực chất Đêm qua chỉ là một nỗi buồn bầm thẫm, khi chợt đến lúc nỗi buồn ấy đã chín và rụng rơi, như quả táo Newton, nhưng không phải là tình cờ giúp anh phát hiện quy luật vật lí mới, như đã giúp Newton thức ngộ về quy luật trọng lực trong thế giới tự nhiên (vạn vật hấp dẫn đối với quả đất), mà về thế sự, thời cuộc, và lí tưởng vỡ tan trong quy luật âm dương ảo hoá (thiện hoá ác, ác hoá thiện; “quá mù sa mưa”…), quy luật âm dương (thiện, ác; và muôn vạn cặp đối lập cụ thể khác) tương khắc tương sinh và quy luật quân bình âm – dương (như mưa – nắng thuận hoà…). Có lẽ tôi đã đẩy liên tưởng thơ ca và đồng sáng tạo khi đọc thơ đi quá xa!
Đêm qua chỉ là lúc trái “vỡ mộng” chín rụng, vỡ oà.
Người hái phù dung chủ yếu vẫn là một mảng thơ ghi lại những cảm xúc, trầm tư về những chủ đề muôn thuở, khắc khoải nhất của triết học và của tâm thức con người ở mọi nơi, mọi thuở:
- Thời gian
- Kiếp người
- Tình yêu – hạnh phúc
- Cô đơn – khổ đau
- Cái chết
- Tự do
- Hư vô (hay linh hồn, thượng đế) …v.v…
Phải chăng, tất cả những chủ đề triết học của các triết gia cũng là niềm khắc khoải của mọi con người bình thường nhất ấy đã được nhà thơ tư tưởng Hoàng Phủ Ngọc Tường chiêm nghiệm thông qua những khoảnh khắc tái hiện cảm xúc trước hiện thực sinh động, thường ngày, trên ý niệm tất thảy đều là vẻ đẹp mong manh, thoáng chốc, vẻ đẹp có thật mà rất đỗi hư ảo như hoa phù dung?
Bài thơ Dù năm dù tháng (22), tôi được đọc lần đầu tiên trong một tuyển tập thơ nhiều tác giả được xuất bản ở Huế giữa những năm 80 gần đây, dễ chừng cũng hai mươi năm rồi. Ở bài thơ này, có lẽ lần đầu tiên ý niệm mong manh, thoáng chốc, có thật mà hư ảo của biểu tượng hoa phù dung cổ điển xuất hiện trong thơ của tác giả Những dấu chân qua thành phố. Nhưng cụ thể hơn, ở đây là thời gian phù dung. Bài thơ được kết cấu theo dạng trình bày – gút lại. Theo tuần tự, đó là vẻ mong manh, thoáng chốc của một ngày; vẻ mong manh, thoáng chốc của một tháng; vẻ mong manh, thoáng chốc của một năm; rồi vẻ mong manh, thoáng chốc của một đời. Ngày, tháng, năm và cả đời người đều được biểu hiện bằng hai màu trắng và tím (màu mới nở và màu úa tàn) của hoa phù dung. Đoạn kết gút lại ý niệm về tính chất mong manh, thoáng chốc đó bằng cách nâng cao lên ý niệm ấy trong sự đối lập với ý niệm vĩnh cửu. Dù năm dù tháng còn là một bài thơ rất đẹp về ngôn từ, hình ảnh. Dù năm dù tháng được thể hiện trong nhạc điệu lục ngôn, hầu như chủ đạo vẫn là nhịp hai hoặc nhịp hai – bốn, đều đặn, trầm lắng, chỉ hai câu bắt đầu bằng hai từ “nhưng”, “nhưng lòng anh \ vẫn khôn nguôi” và “nhưng trái tim \ mang vĩnh cửu”, là nhịp 3 \ 3, như tiếng thốt nên lời phản đề nhức nhối, da diết. Thực sự có vĩnh cửu chăng? Đó là thời gian vô cùng vô tận? Là sự trường tồn nòi giống, huyết hệ? Là khát vọng về cái đẹp vĩnh hằng trần gian mặc dù đó là ảo vọng (tuy chỉ là ảo vọng nhưng khát vọng về cái đẹp vĩnh hằng trần gian ấy vẫn không bao giờ tàn lụi một khi loài người còn tồn tại)? Là hi vọng về giá trị văn chương vĩnh viễn không bao giờ đổ vỡ? Hay trái tim hữu hạn mang chân lí vĩnh cửu? Dẫu cho với một ý nghĩa nào đó hoặc bao gồm tất cả các ý nghĩa ấy, thì đoạn kết được thể hiện trong sự đối lập ý niệm (mong manh, thoáng chốc – vĩnh cửu, vĩnh hằng) cũng làm cho phù dung càng phù dung hơn, nhưng cái phù dung ấy vẫn là một hạt ngọc của sợi dây chuyền thời gian được xâu kết bằng muôn muôn triệu triệu hạt ngọc.
Phải yêu đời lắm, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới buồn như thế về tính chất phù dung của thời gian, đời người…
Và cũng phải yêu nàng thơ (hoặc yêu vợ) lắm, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được Nơi tôi gửi bóng (23). Cũng kết cấu trình bày – gút lại như thế, bài Nơi tôi gửi bóng lại đạt được một cái kết bất ngờ. Cách cấu tứ này không phải là mới, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng một cách tài hoa và nhuần nhị, nhờ vào hình ảnh, ngôn từ và chiều sâu tư duy. Ẩn dụ hình tượng chiếc giếng nước được trình bày đến 06 khổ thơ, đến đoạn kết, bất ngờ bật sáng lên, trở thành hình ảnh nàng thơ (hoặc người vợ). Đây là hai khổ thơ làm nên đoạn kết ấy:
“Có gì đâu xa xôi / Sao mà em bỡ ngỡ / Giếng thẳm sâu đời tôi / Là đời em đó thôi // Giữ hoài cho màu nước / Sáng hoài như lòng tin / Đừng để thấy trong em / Gương mặt tôi tan vỡ”.
Cũng thuộc loại kết cấu trình bày – gút lại như thế, ta còn thấy anh sử dụng ở bài Bốn mùa (24). Xuân, hạ, thu, mỗi mùa đều có một loài hoa biểu trưng nhất theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là bông cỏ dân dã, phượng đỏ thế hệ, cúc vàng nữ sĩ, duy mùa đông, bất ngờ và thú vị thay, khi “hoa vắng nở trên cành / gương mặt em xinh đẹp / làm hoa cho riêng anh?”. Nhưng đối với thơ, đâu chỉ là cách cấu tứ! Tứ thơ mới là điều không thể non kém.
Và điều tôi muốn nói, là Hoàng Phủ Ngọc Tường vốn là một trí thức, một văn nghệ sĩ đã từng nung nấu lí tưởng. Anh tham gia kháng chiến không phải vì nghĩa vụ quân sự bắt buộc hoặc không thể chọn lựa được con đường theo chính kiến mình (giả định chính kiến anh xưa nay không phải là “con đường” Hồ Chí Minh). Từ thành phố Huế, anh lên đường vào chiến khu vì lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Có nung nấu khát vọng lí tưởng xã hội chủ nghĩa đến thế nên anh mới “vỡ mộng” đau đớn như thế khi nhìn thấy lí tưởng được thực hiện trong thực tế đáng chán, trì trệ, mất tự do, dân chủ như thế nào, và nhất là khi hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới hầu hết đã sụp đổ, thoái trào đến mức vô phương cứu vãn (?).Chịu đựng cơn đau đớn “vỡ mộng” này chưa nguôi, lại bị số phận giáng cho một nỗi đau riêng tư tức tưởi nhất. Điều này, tôi chỉ có thể đọc thấy trong thơ của anh như một sự phỏng đoán. Phỏng đoán qua thơ? Vâng, chỉ là phỏng đoán. Thơ vốn là thể loại hư cấu nữa! Chỉ tấm lòng anh, nỗi đau anh là thật. Phải chăng đó là sự đổ vỡ trong … chút tình thơ của anh? Một khi đã yêu nàng thơ đến thế (qua ba bài thơ Dù năm dù tháng, Nơi tôi gửi bóng và Bốn mùa, anh không đề tặng ai), bỗng dưng, tình yêu đương rất thơ đó đổ vỡ ngoài ý muốn của anh, Hoàng Phủ Ngọc Tường rơi vào nỗi buồn bi thảm nhất. Này đây là thơ anh viết, Về chơi với cỏ (25):
“Thưa rằng người đã quên tôi / Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may / Một đường hoang một dấu giày / Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng // Cảm ơn người trái đào tiên / Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai / Cỏ gai hoa thắm mặt người / Trinh nữ ơi trinh nữ ơi – tôi buồn / Thôi người ở lại soi gương / Tôi đi về phía con đường cỏ lau / Nợ người một khối u sầu / Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi // Mai kia rồi cũng xa người / Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa / Có nàng xoã tóc tiên nga / Quỳ hôn cát bụi khóc oà như mưa”.
Đó là sự ra đi, thoát khỏi nàng thơ cụ thể một cách cao thượng. Không những không oán trách, anh còn cho rằng mình dẫu sao cũng mang nợ. Nợ gì? Phải chăng trót để nàng thơ ấy trĩu một khối u sầu trong trống vắng, khiến nàng thơ không thể cam chịu được nữa, để rồi sau bao ngày tháng anh rong ruổi, lúc quay về, sự đổ vỡ không ngờ đã xảy ra? Mối tình Nàng Trương (Vũ Thị Thiệt) và chiếc bóng trên vách ư? Hay đó là sự thật nhãn tiền đau đớn giữa anh và sự lạt lòng của nàng thơ? Dẫu sao, anh cũng tự trách mình, vẫn gọi nàng thơ ấy là trinh nữ theo quan niệm “chữ trinh kia cũng có dăm bảy đường” của Nguyễn Du (trong ý hướng an ủi của ông)? Cuối cùng, anh vẫn hi vọng một ngày kia rồi anh cũng sẽ chết, nàng thơ ấy trót vì u sầu mà lầm lỡ với ai đó sẽ hối hận, “quỳ hôn cát bụi khóc oà như mưa”?
Tôi thấy hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường còn có chất hiệp sĩ, như trong một lần trả lời phỏng vấn trên tạp chí Cửa Việt, anh tự nhận mình chính là “hiệp sĩ mặt buồn”. Phải chăng anh còn là “hiệp sĩ mặt buồn” cao thượng kiểu lãng mạn chủ nghĩa trong sự đổ vỡ chút tình thơ riêng tư này, giữa thời kì tục dụng chủ nghĩa, cạm bẫy giăng đầy này. Tôi cầu mong sao sự đổ vỡ chỉ là trong thơ, và chỉ trong thơ mà thôi.
Phải chăng không những lí tưởng cách mạng xã hội, và thời gian – kiếp người, cùng những giá trị như bàn tay lao động, tuổi trẻ ngày xanh, con người nhân văn, cuộc rượu tình bạn, Trường Sơn kháng chiến, ý thức hoài vọng, nghinh vọng con người lí tưởng đích thực (21)… đều là phù dung, mà cả tình thơ cũng quá đỗi phù dung! Tất cả chỉ là vẻ đẹp mong manh, thoáng chốc, có thật mà hư ảo. Còn nỗi đau khổ trong trái tim anh, nỗi cô đơn của anh, cũng phù dung chăng?
Có lẽ từ những nguyên nhân đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở giai đoạn về sau, càng có khuynh hướng suy tư, chiêm nghiệm lại chủ đề cô đơn, cái chết, hư vô – linh hồn…
Có một điều, tôi thấy anh không bao giờ nói đến Thượng đế theo quan niệm tôn giáo (đấng siêu hình được nhân hoá). Anh vẫn là một thi sĩ vô thần, mặc dù có lẽ anh tin có linh hồn (một dạng siêu vật chất).
Cô đơn của anh lắm khi là sự xa lánh mọi người, để một mình anh đối diện với chính anh trong thiên nhiên cỏ cây sương khói. Bài Thiền định (26) kể về một “ngày ấy” xa xôi nào đó và cả bây giờ: “Tôi vẫn ngồi trong gió heo may / Một phiến hồ thu, nước lại đầy / Ngày không thiên sứ / chiều không nắng / Chỉ một mình tôi với bóng mây // Em kể tôi nghe chuyện núi đồi / Chỉ là ảo tưởng đấy mà thôi / Tôi nhìn trong khoảng mông lung ấy / Chỉ có tôi ngồi với bóng tôi ”, và cuối cùng xa lánh với cả người con gái ấy: “Em gọi tên tôi khắp mọi nơi / Gọi tôi vang động cả vòm trời / Tôi ngồi im lặng như lau sậy / Mờ mịt như màu sương khói thôi”. Niềm cô đơn trong thời trẻ tuổi chưa dấn thân, chưa tranh đấu chính là sự tìm quên thực tại chiến tranh? Niềm cô đơn này ở một nhà thơ từng có cả cuộc đời dấn thân, kháng chiến quyết liệt, bền gan nhất, phải chăng là một sự phản kháng lại thực tại hậu chiến?
Bài thơ viết về hư vô – linh hồn được nhiều người đọc, bình và nhớ là Địa chỉ buồn (27). Đạm Tiên trong Truyện Kiều như một ám ảnh về định mệnh bất hạnh của kiếp tài sắc. Ở bài thơ này, đường phố âm hồn của tài sắc mang tên bóng quế Đạm Tiên! Đó là nơi có vầng trăng soi chiếu giấc ngủ anh, và từ chốn vĩnh hằng, nàng tiên nào đó lặng nhìn. Đó là nơi có những giọt lệ nến trong thơ Lý Thương Ẩn cứ chảy hoài từ thuở sơ sinh như tiền định. Và, “những chiều Bến Ngự giăng mưa / chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi / tôi ra mở cửa đón người / chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang // nhà tôi ở phố Đạm Tiên / “dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu” / cây sầu đông, cây sầu đau / thương tôi, cây cũng nở màu hoa râm”. Đây phải chăng là trạng thái tâm lí nhập thân (đồng nhất nhân vật Thuý Kiều với chính mình) của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường – anh bị ám ảnh (như Thuý Kiều bị ám ảnh) về kiếp nghệ sĩ tài hoa mà “bạc mệnh cũng là lời chung”? Phải chăng tận chiều sâu của trạng thái này chính là niềm phản kháng, phê phán xã hội như rất nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định về Truyện Kiều?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho biết rằng, luận văn cử nhân triết học của Hoàng Phủ Ngọc Tường là “Cái chết (La mort)” (28) và Nguyễn Trọng Tạo, Hồ Thế Hà cũng đã bình luận nhiều về chủ đề này trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi cảm nhận thêm một điều là ở thời tuổi trẻ, Hoàng Phủ Ngọc Tường chấp nhận cái chết tích cực, chết vì sự sống như trong bài ca dao về cây sầu riêng, “một cây ngã xuống, vạn chồi mọc lên”; ở giai đoạn sau này, cái chết thường xuyên trở đi trở lại như ám ảnh không rời trong tâm thức một “gã tình si kêu gào vĩnh cửu” (29) Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhà thơ từng tiếc nuối thời gian chóng qua (Dù năm dù tháng), phải chăng tận chiều sâu là một thái độ phản kháng thực tại?
Điều quan trọng nhất, đáng quan tâm nhất là quan niệm về tự do. Ở bài Người khát vọng bầu trời (30), anh viết hồi kỉ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi, 1980, bấy giờ, quan niệm tự do của anh mới mạnh mẽ biết bao! Đó là tự do cho cả dân tộc và cho mỗi con người. Cho dù trước kẻ thù ngoại xâm nhà Minh hay trước bọn gian thần bạo chúa nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi vẫn bất khuất. Kín đáo trong bài thơ này là khát vọng tự do, dân chủ của Hoàng Phủ Ngọc Tường và của cả dân tộc trong thời chưa Đổi mới (1986), chưa Cởi trói (1987). Nhưng tư tưởng tự do, dân chủ, cơ chế đối trọng của anh không thấy thể hiện trong thơ, mà chỉ loé lên trong vài bài báo! Tự do, dân chủ và cả công bằng, bình đẳng nữa, trong Người đi hái phù dung, thực chất chỉ là tự do cá nhân trong sự chối từ xã hội kiểu tiêu dao du, tề vật luận của Trang Tử, thể hiện qua Nam Hoa kinh:
“… Con chim nào giấu mặt trong sương / Khi chiều xuống cùng tôi trò chuyện / Chim hỏi tôi: Người từ đâu đến? / Thưa chim rằng: Tôi từ cỏ sinh ra // Tôi trở về tìm trong hương cỏ / Dịu dàng một chút bình yên / Tự do nhiều khi là im lặng / Để đừng nghe ai gọi tên …” (31).
Thật dễ thương biết bao trong đối thoại kiểu tề vật luận với tinh thần bình đẳng giữa vạn vật, muôn loài, nhưng tự do không chỉ là rong chơi, ngao du sơn thuỷ hoặc “dưới cây kia tôi ngồi hát nghêu ngao” (31) kiểu tiêu dao du nữa, mà còn là ý thức tự giải phóng ra khỏi thân thế (vốn như một thứ trói buộc cho dù tập ấm hoặc nô lệ truyền kiếp) và im lặng (vô công, vô vi), và vô danh.
Phải chăng đó cũng là một cách phản kháng tiêu cực, quá tiêu cực, của một trí thức, trong thời tuổi trẻ, vốn đã đấu tranh không chùn bước trong cơ chế dân chủ tư sản Miền Nam trước Ngày Thống nhất (1975), cũng đã lên đường kháng chiến chống Mỹ, từng hiểu thấu đáo thế nào là tự do, dân chủ, đối lập, đối trọng lẫn các mệnh đề của chủ nghĩa Marx? Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường như thể đã đành quên “tự do của người này là điều kiện tự do của người khác”, “tự do là sự nhận thức được tất yếu” (“tất yếu” phải là tất yếu khách quan, xét theo quan điểm đồng đại, so sánh với các nước trên thế giới, không phải là thứ “tất yếu” bị áp đặt, xuyên tạc để bảo vệ nền chuyên chế độc tài, ở các nước nào đó!).
Trong tất cả các nhân quyền, Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ đòi mỗi một thứ tự do được bày tỏ thái độ, mà nói theo ngôn từ của anh là “quyền được buồn”. Thực chất quyền được buồn là quyền được bày tỏ công khai trên báo chí, bằng văn chương thái độ bất bình trước những gì chướng tai gai mắt, và cũng theo cách như thế, được quyền bày tỏ cả nhân sinh quan riêng của mình, sáng tạo riêng của mình… Tôi nghĩ, thực chất đó là quyền biểu đồng tình hay phê phán (và chấp nhận sự đồng tình hay phê phán phản hồi) một cách xây dựng, đó là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản… Thật ra, “quyền được buồn” cũng còn hạn chế lắm, nhưng thử tưởng tượng không một ai trong nước được quyền bày tỏ nỗi buồn bực, buồn chán của mình trước bao điều trái tai gai mắt xem! Thật khủng khiếp!
Và như đã nói, khi buồn (âm) quân bình với vui (dương), con người mới thật sự cân bằng tâm lí, để không đến nỗi bất bình thường, máy móc hoá!
Dẫu sao, tôi vẫn cảm nhận được những nét tiêu cực một cách tích cực của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua Người hái phù dung.
Người hái phù dung là mảng thơ đẹp nhất của anh về ngôn từ, hình ảnh, nhạc điệu, màu sắc thơ, tuy có đôi chỗ (rất ít) có lẽ hơi sáo mòn như anh Nguyễn Trọng Tạo đã chỉ ra. Phải nói thêm, thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đẹp trong trẻo và uyên áo. Nếu vừa thích vì đẹp, vừa trách sao thơ anh càng về sau càng buồn đến tuyệt vọng, thì chỉ có một cách là đọc thêm truyện kí của anh. Thang thuốc, như đối với mọi nhà văn, trước hết là cho mình, anh cũng đã tự kê đơn, có đủ cả thứ hàn, thứ nhiệt và thứ bình, trong sự tương tác lẫn nhau giữa các thứ như thế!
5
Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà thơ đồng thời là một nhà văn có tấm lòng quý mến đặc biệt đối với những người làm văn thơ trẻ tuổi hơn anh.
Cách đây gần 20 năm, bấy giờ tôi còn ở Quảng Trị, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường và các anh trong Ban Biên tập Tạp chí Sông Hương, gồm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nhà thơ Võ Quê và nhà văn Nguyễn Khắc Phê, có một lần ghé đến nhà tôi để thăm hỏi. Đêm đó, tôi có viết một bài thơ rất mộc mạc để kính tặng:
Tấm lòng
bất ngờ trước những tứ thơ
những trang văn, vẫn có ngờ được đâu!
bàn tay tìm đến nỗi đau
trái tim nghe tận nguồn sâu mạch đời
tấm lòng rộng mở đến tôi
cái nhìn gắng trải khắp trời Nắng – Mưa
bao điều đã viết và chưa
cơ hồ thấm thía như vừa đọc xong
văn chương tự những tấm lòng
mãi trong veo ngan ngát dòng Sông Hương
các anh vào, nắng vườn dương
cứ bâng khuâng ở bên đường làng quê
tôi ngồi đến cạn đèn mê
ánh trăng vằng vặc lại về trong tôi.
TXA.
Quảng Trị, 1885
Bài lục bát Tấm lòng là một kỉ niệm đáng nhớ còn đọng lại trên giấy.
Về nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi còn nghĩ, chính anh mới là một chiếc cầu nối tuyệt vời nhất giữa hai bờ Bến Hải về văn học nghệ thuật. Không ai hiểu văn nghệ sĩ Miền Nam – Miền Bắc trước và sau Ngày Thống nhất (1975) hơn anh. Rất tiếc, anh đã bị bệnh suốt mấy năm nay, đến mức chỉ ngồi trên xe lăn, nói năng rất khó. Tôi vui mừng xen lẫn với ngạc nhiên như thể được chứng kiến một sự kì diệu, là anh vẫn tư duy rất minh mẫn, viết lách rất tài hoa, và càng cảm thấy mừng khi những ngày gần đây anh chuyện trò rõ tiếng hơn. Tôi cũng hi vọng 02 cuốn tiểu thuyết tôi mới xuất bản trong năm ngoái, Ngôi trường tháng giêng và Sen đỏ, bài thơ hoà bình (**), đã được anh đọc. Không rõ tình trạng sức khoẻ như thế, anh có đọc tiểu thuyết hay không. Trong Ngôi trường tháng giêng, nhà văn Đan Sử (có nghĩa là sử đỏ, sử viết bằng máu) chính là nhân vật được hình tượng hoá từ nguyên mẫu rất thật là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trong những năm tháng anh bị bệnh tật đến mức ấy, chị Lâm Thị Mỹ Dạ đúng là một người vợ hiền, thuỷ chung, chịu thương chịu khó với sự nhẫn nại bền bỉ đến mức không một ai không kính phục.
Tôi vẫn cứ nghĩ rằng, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ còn viết hay và viết nhiều hơn nữa. Hi vọng “phần chìm” ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh Nguyễn Trọng Tạo có nói đến, sẽ được viết ra trên hàng ngàn trang giấy hay ít ra cũng sẽ được ghi âm lại. Và giá như có một thư kí bên cạnh chị Lâm Thị Mỹ Dạ để cùng chị giúp việc cho anh! Đó là cả một tài nguyên quý báu, mất đi sẽ không bao giờ có thể tìm lại được.
TP. HCM., khởi viết từ 08 giờ 10 phút, ngày 22. 10. HB4 (09. 9. G. thân HB4);
viết xong lúc 16 giờ 28 phút, ngày 24 . 10. HB4 (11. 9. G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(*) Trước đó, vào năm 1973, tôi đã được một tuần báo ở Sài Gòn, cụ thể là nhà văn Từ Kế Tường (Nguyễn Đan Trường), giới thiệu là một người thơ mới với bài Tiếng chuông xưa (Tuổi Ngọc, số 103, năm 1973).
(1) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tuyển tập (TTHPNT.), (4 tập, Trần Thức tuyển chọn từ Những dấu chân qua thành phố, tập thơ, Nxb. Giải Phóng, 1976 và Người đi hái phù dung [1995], Nxb. Thuận Hoá tái bản, có bổ sung, 1997), tập 4, thơ, Nxb. Trẻ TP. HCM. & Công ti Văn hoá Phương Nam, 2002.
(2) TTHPNT., tập 4, bài bạt của Nguyễn Trọng Tạo: Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cõi tâm linh, sđd., tr. 187.
(3) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 5.
(4) Trần Tam Tỉnh (linh mục), Thập giá và lưỡi gươm (nguyên tác tiếng Pháp: Dieu et Çésar, Nxb. Sudest-Asie, Paris, 1978), linh mục Vương Đình Bích dịch, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 133 – 158… Chế độ độc tài Ngô Đình Diệm (1955 – 1963) thực chất là con đẻ của Mỹ và chủ yếu là con đẻ của thế lực phản quốc Thiên Chúa giáo, kể từ thời Tự Đức (1847 – 1883), Hàm Nghi (1884 – 1885 – 1888) đến 1963, điều đó ai cũng rõ, nhân chứng lịch sử cho đến nay vẫn còn sống khá nhiều. Riêng cái gọi là chế độ đệ nhị cộng hoà do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu, vì Thiên Chúa giáo rút kinh nghiệm từ vụ Ngô Đình Diệm, và vì Nguyễn Văn Thiệu không lộ liễu chường ra nhãn hiệu thập giá, nên nhiều người còn ngộ nhận. Để tiện tham khảo và để dễ hồi ức lại bối cảnh lịch sử giai đoạn 1963 – 1975, xin trích một vài đoạn từ sđd.: “Cuộc binh biến đầu tiên do “Minh đại ca” [Dương Văn Minh – TXA. chua thêm (ct.)] chỉ huy đã bị lật nhào ngày 30 tháng giêng 1964 bởi một nhóm tướng trẻ do Nguyễn Khánh điều khiển. Khánh lại phải cuốn gói ngày 13 tháng 9 để nhường cho một “tên Thổ trẻ”, tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ. Như một phép lạ, ngày 27 tháng 10 năm 1964, xuất hiện một chính phủ dân sự của Phan Khắc Sửu [tín đồ đạo Cao Đài, làm quốc trưởng đến 1966 [?] – ct.], chẳng mấy bữa lại bị lật đổ, ngày 20 tháng chạp trong một cuộc “đảo chính bỏ túi”. Nguyễn Khánh lại lên ghế chủ tịch, bằng một cuộc trở về yên ổn ngày 28 tháng giêng 1965, để ba tuần sau đó lãnh án “lưu vong”, làm đại sứ lưu động, rồi sau đó làm chủ một quán ăn tại Paris. Vụ lật đổ thứ sáu đưa ông tướng hung hăng Nguyễn Cao Kỳ lên cầm đầu chính phủ. […] Có một nhân vật ngồi ung dung trong văn phòng mình tại Sứ quán Mỹ cứ giật dây, điều khiển các con rối và thay đổi chúng tuỳ thích, đó là Cabốt Lốt [Lodge – ct.]…” (sđd., tr. 143 – 144); “Chẳng bao lâu, y [Nguyễn Cao Kỳ – ct.] đã đành chịu đóng vai nhì bên cạnh một tướng cao mưu, xảo kế hơn, đó là Nguyễn Văn Thiệu. Tay này đã trở lại đạo Công giáo dưới chế độ Diệm. Một số người cho rằng y theo đạo Công giáo vì những động cơ chính trị, hơn là vì lí do tôn giáo [và vợ y là một tín đồ Thiên Chúa giáo – ct.]” (sđd., tr. 145); “Trong bối cảnh như thế, thái độ của Giáo hội [Thiên Chúa giáo – ct.] Việt Nam như thế nào? Sau một lúc bị gạt ra rìa bởi nhóm tướng tá đảo chính và Hoa Kỳ đang muốn chơi con bài Phật giáo, người Công giáo lại giành được thế mạnh chính trị vào năm 1965. Quả thế, trong vụ khủng hoảng Phật giáo và sau khi Diệm bị đổ, người Mỹ cứ ngỡ rằng có thể dựa vào Phật giáo để thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng Giáo hội Phật giáo thống nhất, mặc dầu có nhiều xu hướng và ý đồ khác nhau, vẫn không tán thành chiến tranh và không chống lại việc thương thuyết với Cộng sản. Một điều chắc chắn, theo cây bút Xunbecgơ trong tờ Nữu Ước thời báo [Newyork Time – ct.] ngày 15. 3. 1965, tổ chức Phật giáo không đồng tình với kiểu cách của Oasinhtơn [Washington DC., thủ đô Mỹ – ct.], mà lại nghiêng về phía các ước nguyện của Việt cộng. Mất hứng trước thái độ của Phật giáo, Lầu Năm Góc quay lại luôn phía Công giáo và chơi cho hết ván bài này…” (sđd., tr. 149 – 150); “Năm 1967, […]. Tại Việt Nam, các binh sĩ Mỹ đã đặt lên ngôi tổng thống một người Công giáo (Nguyễn Văn Thiệu) và đưa vào thượng viện đa số nghị sĩ Công giáo (35 ghế trên 60)…” (sđd., tr. 155).
Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản đã sửa chữa, bổ sung lần thứ ba, in vi tính ngày 19. 12. 2003 (trọn vẹn gồm 745 trang [kể cả phần chú thích, phụ lục] và phần ngoài sách gồm 15 trang [một bài thơ viết về Quang Trung cùng các chú thích sử học], cỡ sách 13 cm x 19 cm).
(5) TTHPNT., tập 4, sđd., phần gấp bìa 1.
(6) Xem thêm: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Như con sông từ nguồn ra biển (truyện kí, 1971), trong Tuyển tập HPNT., tập 2, Nxb. Trẻ, 2002, tr. 9 – 38.
(7) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 32 – 33 & bài Đường phố ấy, sđd., tr. 21 – 23.
(8) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 14.
(9) TTHPNT., tập 4, bài Câu hỏi, sđd., tr. 18 – 20.
(10) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 15 – 17.
(11) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 11 – 13.
(12) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 64.
(13) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 65.
(14) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 79 – 82.
(15) TTHPNT., tập 4, bài Tôi viết tên Người, sđd., tr. 26 – 28.
(16) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 52 – 56. Nậy có nghĩa là lớn.
(**) Chẳng hạn về cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 (báo chí Miền Nam gọi là “biến cố Tết Mậu thân”), bài thơ Dấu dép cao su trong vườn mẹ của Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ đúng và rất đúng với anh và đồng đội Giải phóng quân của anh cũng như với các gia đình cơ sở cách mạng ở Huế, kể cả ngoại thành. Trong hiện thực lịch sử, vào thời điểm đó, lính Mỹ đầy khắp Huế và cả Trị – Thiên, nên bộ phận thanh niên, sinh viên học sinh tiến bộ, nhất là thân cách mạng, rất căm phẫn. Chính tôi, thuở bé, đã chứng kiến được không khí căm phẫn ấy. Nhưng đó là một biến cố đau thương, tang tóc đối với một phân số khá lớn nhân dân Huế vốn là những người dân tộc chủ nghĩa (trung lập, bị kẹt giữa hai gọng kìm “tả đạo” và cộng sản), rất sợ hãi chủ nghĩa vô thần, đấu tranh giai cấp, nhất là những ai họ xem là “thân” Liên Xô, Trung Quốc (họ cho rằng Liên Xô, Trung Quốc cũng như Pháp, Nhật, Mỹ). Cho nên, không khí Huế sau Tết Mậu thân, cùng với chiến dịch tuyên truyền tâm lí chiến của Mỹ ngụy (về Khe Đá Mài với hàng trăm tử thi bị thủ tiêu…) là khá hãi hùng. Chính tôi, thuở bé, cũng đã chứng kiến được không khí tang tóc ấy.
Nhân chứng lịch sử cho cả hai phía ngụy và cách mạng, cũng như phía bộ phận nhân dân, ngụy quyền, ngụy quân lớp dưới (bất đắc dĩ phải làm công chức hoặc đi lính cho ngụy) hiện nay còn sống không phải là ít.
Cho nên, câu ngạn ngữ Phương Tây “bên này dãy Pyrénnées là chân lí, bên kia là sai lầm”, cũng có thể vận dụng ở trường hợp Tết Mậu thân Huế 1968 này chăng? Ở đây, tôi chỉ nói về quan hệ giữa thi ca và sử học cũng như đặc trưng của mỗi loại. Xin khẳng định lại một lần nữa để khỏi bị ngộ nhận: Tôi không có ý cho rằng bài thơ Dấu dép cao su trong vườn mẹ phản ánh sai sự thật lịch sử đối với nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường và đồng đội Giải phóng quân của anh cũng như đối với bộ phận gia đình cơ sở cách mạng ở Huế và ngoại thành Huế. Nhưng đó không phải là sự thật lịch sử toàn cảnh Huế vào Tết Mậu thân 1968.
(17) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 132 – 134.
(18) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 137 – 138.
(19) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 135 – 136.
(20) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 121 – 122.
(21) TTHPNT., tập 4, bài Đêm qua, sđd., tr. 106 – 108.
(22) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 83 – 84.
(23) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 87 – 88.
(24) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 157 – 158.
(25) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 126.
(26) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 161 – 162.
(27) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 104 – 105.
(28) TTHPNT., tập 4, hai bài đã dẫn, sđd., tr. 190 & tr. 200 – 201.
(29) TTHPNT., tập 4, bài Tình sử Hy Lạp, sđd., tr. 91 – 93.
(30) TTHPNT., tập 4, sđd., tr. 95 – 96.
(31) TTHPNT., tập 4, bài Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi, sđd., tr. 109 – 110.
(**) Trần Xuân An, Ngôi trường tháng giêng (tiểu thuyết) & Sen đỏ, bài thơ hoà bình (tiểu thuyết), xuất bản cùng một lượt, Nxb. Thanh Niên, 2003.
(*) Trần Xuân An, Ngôi trường tháng giêng (tiểu thuyết), Nxb. Thanh Niên, 2003.
(+++) Phụ chú (ngày 9-7-2005): Xin chú thích thêm: 4 câu thơ về lá cờ Mặt trận Giải phóng và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Đó là lá cờ chính thức và chủ yếu ở Miền Nam, trước ngày Hiệp thương Thống nhất (1976). Đoạn thơ ấy trích trong trường ca “Nước non ngàn dặm” của Tố Hữu: “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh, Màu đỏ của đất, màu xanh của trời, Ngôi sao chân lý của đời, Việt Nam – vàng của lòng người hôm nay”. Phải chăng đó là lá cờ ngược (sách lược tạm thời)? hay do vô thức chi phối khi Tố Hữu cấu tứ? Có nên truy kích nhau trong phê bình văn học? Tôi (Trần Xuân An), trong những năm về sau, đã mạn phép chữa nghịch lý lại cho hợp lý hơn: “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh, Màu đỏ hừng sáng [trời rạng?], màu xanh biển ngời, Ngôi sao chân lý của đời, Việt Nam – vàng của tim người hôm nay”. Tất nhiên, bấy giờ cũng như bây giờ, tôi không dám sửa thơ của người khác (nếu không phải bạn bè, thân quen và có trao đổi chân tình) như vậy, nhất là thơ của Tố Hữu (đã vào văn học sử khi ông còn sống). Ý tưởng này với những hình ảnh ấy, tôi đã thể hiện trong một bài thơ của mình vào năm 1976.
TXA.
Đã gửi: (25. 10. HB4):
Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường
& chị Lâm Thị Mỹ Dạ (để được góp ý trước khi gửi đăng báo);
& (01. 12. HB4):
Hoàng Dạ Thư (NXB. Trẻ, để chuyển giúp… ).
________________________
Bài thứ chín
ĐỌC THƠ HÀ LINH CHI
Kính gửi đến gia đình
cố thi sĩ Hà Linh Chi
với niềm tưởng tiếc khôn nguôi về anh.
TXA.
1
Cuối cuộc họp rút kinh nghiệm về số đầu tiên tập san Văn nghệ Bình Trị Thiên, tôi mới biết người đàn ông đã ngoài ba mươi tuổi, có nước da ngăm ngăm nâu và khá vạm vỡ, vừa phát biểu kia, là nhà thơ Hà Linh Chi. Anh nói, xin anh em gửi bài về Đài Phát thanh tại Huế, nhưng nhớ đừng gửi những bài “lên gân”, bởi người biên tập là anh, vốn không thích “lên gân”. Anh dùng hai chữ đó với ý mỉa mai sự hô hào suông như “khẩu hiệu” trong thơ. Đó là ý kiến sau khi có người đã phê phán sự “bít bùng” trong nghệ thuật. Tôi suýt nữa phải bật cười, bởi sau Ngày Thống nhất (1975), như nhiều người đã viết, ở thời điểm đó, những người chiến thắng cùng với tuổi trẻ chưa thật sự vướng vào cuộc chiến tranh, rất lãng mạn, loại lãng mạn “hướng ngoại”, thường vẽ vời trong ước mơ những gì rất to tát, viển vông về xã hội, về Đất nước, quê hương, nên rất dễ duy ý chí. Anh Hà Linh Chi vốn là một người khá “ngang xương” như thế.
Đó là năm 1976, lần đầu tiên tôi gặp anh. Hình như sau đó không lâu, nhà thơ Hà Linh Chi cũng vào Lâm Đồng tiếp tục công tác ở Đài Phát thanh tại Đà Lạt.
Tháng 09. 1978, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, tôi được bổ nhiệm vào Ty Giáo dục Lâm Đồng. Tôi vẫn chưa gặp lại anh Hà Linh Chi. Năm học đầu tiên, tôi về giảng dạy tại Lộc Ngãi, huyện trà Bảo Lộc (*). Cũng chưa có dịp nào gặp lại nhau! Năm học sau đó, tôi về Trường Phổ thông cấp III Bảo Lộc, nhưng lại dạy tại phân hiệu Đa Huoai của trường, tít tận Chiến khu D cũ. Vẫn chưa gặp lại! Đến hai niên khoá ở hai vùng khai hoang lập ấp, thường được gọi là vùng “kinh tế mới”, tôi mới được lên giảng dạy tại Trường Phổ thông trung học (cấp III) Đức Trọng, nơi có sân bay Liên Khương và thác Prenn, thác Gougar nổi tiếng.
Năm 1980, chúng tôi mới gặp nhau lần thứ hai, sau lần đầu ở Huế vào năm 1976.
Lần gặp lại, anh bảo, mấy năm qua anh bị các vị lãnh đạo “hành hạ”, “lên dây cót” đủ việc, từ thu mua lương thực cho đến những việc không phải là thơ ca, báo chí, phát thanh gì ráo. Tôi không ngạc nhiên, vì biết nét cá tính khá ngang tàng một cách nghệ sĩ của anh, thế nào cũng bị lận đận bởi các vị cấp trên vốn ưa chuộng khuôn phép.
Từ đó, anh Hà Linh Chi với tôi rất thân tình, như thể bạn bè, đến mức thỉnh thoảng vẫn có thể cùng nhau rượu chè, cười cợt, châm biếm hơi suồng sã một cách đau xót về đủ thứ chuyện tiêu cực trên đời, hoặc khoái chí đến mức có thể cười ha hả hay xuýt xoa thích thú về những gì tốt đẹp ngoài xã hội, mặc dù anh lớn hơn tôi đến 16 tuổi.
“Trong cuộc sống thường ngày, Hà Linh Chi là người sôi nổi, nồng nhiệt với bạn bè, không hề che giấu bản chất con người mình. Phía sau những ứng xử có lúc như ào ạt là một một trái tim thơ nhân hậu, một trí tuệ sắc sảo, một cá tính độc đáo khắc sâu vào tâm trí những người đã có dịp gần anh” (1). Đó là một nhận định rất đúng về nhà thơ Hà Linh Chi.
Nhưng tiếc thay, hơn 10 năm rồi, kể từ ngày 21. 06. 1994 ấy, anh không còn nữa trên cõi đời này, ở tuổi 54 còn đầy sức sáng tạo! Ngày anh về với thế giới hư vô, với lòng Đất Mẹ tại Đà Lạt, tôi đang ở thành phố Hồ Chí Minh. Nhận được điện tín báo tang do anh Trần Ngọc Trác gửi về, lúc nấm mộ anh đã đắp lại rồi, tôi chỉ biết thắp một nén nhang hướng mặt lên thành phố hoa quỳ vàng ấy.
Liệu tôi có thể viết gì về thơ của một người đã thành thiên cổ!
2
Hình dung ra cuộc đời nhà thơ Hà Linh Chi, có lẽ phải khởi đầu từ một bài thơ hồi tưởng của chính anh. Có những khoảnh khắc, những buổi, những ngày mãi còn đọng lại trong trí nhớ thời tấm bé, do được tận mắt chứng kiến hoặc được kể lại một cách tình cờ bởi người lớn, mãi về sau, trở thành một dấu ấn màu son không phai mờ trong tâm khảm. Hẳn những ai sáng suốt đều nghĩ rằng tâm thức con người không bao giờ là một tấm bản sao vô tri được chụp lại từ thế hệ trước cùng huyết thống. Tuy nhiên, với sự suy tư, chiêm nghiệm và có thể cả khảo nghiệm của mình về lịch sử, Hà Linh Chi đã có một Buổi sáng ấy (2), không thể nào quên:
“Con chỉ nhớ khi con vừa năm tuổi / Ngày tháng trôi qua trong sóng biển, còi tàu / Đường phố chợ có bao giờ bước tới / Cha đốt củi trên rừng, mẹ ra hói tìm rau // […] Mặt trời lên rồi bốn bề trống thúc / Trong Lăng Cô ra, ngoài Đá Bạc vào / Bên Tư Hiền cũng thuyền giăng mỏ giục / Rừng cờ, rừng người cuồn cuộn vàng sao! // […] Con đâu hay đó là Ngày Độc lập / Tháng Tám mùa thu cờ đỏ sao vàng / “Cờ pha máu chiến thắng mang hồn nước…” / Cha bước trong đoàn người cùng hoà nhịp ca vang // Bốn mươi lăm năm một đời con theo bước …” (**).
Bài thơ được anh viết vào năm anh đã 50 tuổi, vào một ngày gần cuối tháng tám, 1990. Đó là năm ở Đông Âu, một loạt nước xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, sự biến Thiên An môn ở Bắc Kinh cũng đã diễn ra, và ở Liên Xô, một không khí rối loạn đã bắt đầu dữ dội hơn. Nhưng Hà Linh Chi vẫn muốn giữ trọn vẹn, không hề có chút dao động, như ai đó đã toan lau chùi đi dấu ấn màu son Cách mạng Tháng Tám và cả quãng đời, như anh đã thưa với hương hồn cha mình, “bốn mươi lăm năm một đời con theo bước” với Tiến quân ca.
Sau 09 năm kháng chiến chống Pháp, dưới ngọn cờ Tháng Mười tại Nga (1917) và ngọn cờ Tháng Tám Việt Nam (1945), ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, có một người chiến sĩ cách mạng đã dẫn con trai ra Miền Bắc, sau hiệp định Genève (20. 07. 1954). Hà Linh Chi chính là đứa con trai ấy, mới bước vào tuổi 14 được gần 03 tháng (3). Không phải ngẫu nhiên mà về sau, trong tập thơ của mình, theo nếp tư duy thuở bấy giờ (dẫu trong số bạn anh lắm người chê trách là di căn nhược tiểu (***)), vẫn có vài ba lần anh nhắc đến hai chữ Tháng Mười viết hoa:
“Rực rỡ đoá quỳ vàng / Đưa cao nguyên vào nắng / Nghiêng nghiêng vầng nón trắng / Óng vàng mái tóc Nga […] / Cùng vun gốc tỉa cành / Cho Tháng Mười bông trổ / Màu ba dan thắm đỏ / Trên tay cô gái Nga …” (4).
(Đà Lạt, 10. 1983)
Từ năm 14 tuổi, Hà Linh Chi ra Miền Bắc học tập phổ thông, rồi đại học. Sau đó, giảng dạy tại một trường cấp III ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc. Giã từ ngành giáo dục, dự một khoá bồi dưỡng viết văn, năm anh 31 tuổi (1971), Hà Linh Chi cùng đồng đội vượt ngang sông vĩ tuyến mười bảy, có tên Hiền Lương (Bến Hải), để vào chiến trường Miền Nam, vừa cầm bút, vừa cầm súng:
“Cầu bảy nhịp còn hai /bom từ trường đợi nổ / dòng sông mùa mưa lũ / bến bờ không bóng thuyền // Bên kia làng Trung Giang /cỏ lau vàng hoang dã / dây kẽm gai hầm hố / bìm bịp kêu lạnh đồng //Đồn Đốc Miếu chông chênh / đỏ bầm từng ụ đất / dáng người đi cúi mặt / dưới tầm súng ca nông … […] / nước bồi hồi dưới ngực / tôi bơi qua dòng sông” (5).
(Hiền Lương, 1971)
Hai năm liền, Hà Linh Chi chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị. Bút pháp thơ của anh hình như đã định hình, rõ nét, là thiên về kí sự. Hình như anh rất chú ý việc miêu tả, và qua đó, thi thoảng mới bày tỏ cảm xúc, suy tư của cái tôi trữ tình một cách trực tiếp. Bài thơ Gió từ La Vang (6) được anh khắc từng nét bút mạnh và sắc:
“Trời La Vang gió giật từng cơn / Cát quất như roi / Lá mài như kiếm / Tre xát vào nhau ớn lạnh / Lào rào kẽm sắt / Lảng rảng mái nhôm / Gió từ La Vang tràn sang Cửa Việt / Mùa hanh heo gợi nhớ đồng bằng // […] Cát bỏng hầm sâu / Lửa xém đồng bằng / Máu chảy xuống, gió lùa khô tím ngắt / Gió miết đồi tranh lá sắc / Cỏ còn giữ nước mà cỏ thành chông / Gió khô cong sắc mặt cháy đồng hun / Rít ầm ù hoang khô vùng hậu địch …”.
(Quảng Trị, 1972)
Bài thơ Màu đỏ đất Cùa (7) cũng theo một bút pháp thơ kí sự như thế, có đoạn anh “chép” nguyên lời nhân vật vào thơ, như một nhà-báo-thơ tại mặt trận, có chỗ lại miêu tả một cách khá ấn tượng về sự khốc liệt, dữ dội, tàn bạo của chiến tranh, bất chấp cấm kị “tự nhiên chủ nghĩa” (thường khiến người đọc yếu vía mất hồn):
“Hãy nhìn tận mắt anh ơi! / Vườn xưa tuổi nhỏ / Bây giờ lau lách cỏ tranh / Bom toạ độ nổ thành miệng phễu / Vườn mẹ / Mênh mông chói đỏ ngút ngàn… // Lòng chảo Cùa như miệng cối xay / Nghiến nát màu xanh thành máu đỏ / Mỗi hạt tiêu cũng hoá thành hạt lửa […] // … Màu đỏ đất Cùa – màu lửa trái tim”.
(Cùa, tháng 8. 1972)
Đến tháng 08. 1973, nhà thơ Hà Linh Chi mới về lại quê hương Thừa Thiên của anh. Anh đã biểu hiện thay vì tự biểu hiện, thông qua nhân vật cái tôi trữ tình là một người đã kinh qua gần suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ:
“Về Thừa Thiên, ta về Thừa Thiên / Đất mẹ quê cha một đời cay cực / Núi Truồi ơi, hai mươi năm đánh giặc / Ta bạc tóc này cho núi mãi xanh tươi”.
Thiên về miêu tả “hướng ngoại”, ít khi xoáy cái nhìn vào chiều sâu nội tâm mình, Hà Linh Chi vẫn có cách miêu tả rất đỗi cảm thông về cái nghèo Trung bộ, nghèo vì sông suối nhiều, nhưng độ dốc cao và trong văn vắt, ít phù sa, lại chịu đựng chiến tranh hơn bất kì quê xứ nào:
“Bao giờ em đến miền Trung / đừng mặc áo hoa mà buồn con nước / nếu tuổi thơ em qua nhiều mất mát / em lại gặp mình trên mặt dòng sông” (8).
Cuộc chiến tranh kết thúc để sáng bừng lên một Ngày Thống nhất (1975). Hà Linh Chi viết về Dòng sông sau cơn lũ (9), có nhiều đoạn với thủ pháp xới lật; bắt đầu là mặt quá khứ, “phù sa từ hố bom / trôi qua vườn nhà mẹ / màu tím ngắt trong vườn / theo dòng sông ra bể […] // phù sa thấm vào rễ / quả hừng lên nỗi đau”; để rồi ở một đoạn khác, anh lật lại để nhìn rõ mặt hi vọng về tương lai, “phù sa từ hố bom / sẽ vươn xanh mầm lá / phù sa từ vườn mẹ / nở nụ hồng môi em […] // phù sa chìm trong rễ / cho hồng lên nụ cười”. Hình như khi viết về mặt nỗi đau, thơ Hà Linh Chi có nét mới mẻ hơn. Viết về mặt hi vọng, thơ anh lại rơi vào khuôn sáo! Phải chăng đó cũng bởi nguyên nhân chung của một thời? Rất nhiều, quá nhiều dòng thơ viết về hi vọng đến mức không còn gì là mới mẻ nữa ở địa hạt này, trong khi khổ đau vẫn còn nhiều “đất hoang” chưa khai phá. Tuy vậy, không phải Hà Linh Chi không có những câu sinh động: “em là ngọn nến hồng / soi đêm dài bão tố / trong veo, sau mùa lũ / em là dòng sông Hương”.
Thế là một quãng đời thơ khác đã mở ra, không còn súng đạn và máu xương, mà chỉ là màu xanh cây lá, sông nước và những mùa vàng ruộng rẫy.
3
Nếu trong tập thơ tuyển Lời đá của Hà Linh Chi, chỉ có vỏn vẹn 08 bài trước Ngày Thống nhất, thì thời gian suốt 19 năm hoà bình sau đó, có đến 47 bài được chọn.
Thi pháp thơ thiên về kí sự, miêu tả ngoại vật và ngoại cảnh như thể Hà Linh Chi là một nhà-báo-thơ, không chỉ là thi pháp của anh trong chiến tranh. Hoà bình, từ 1975, vẫn một thi pháp ấy, anh đi suốt 19 năm, cho đến ngày anh mất, 21. 06. 1994.
Nhà thơ Hà Linh Chi khác với những nhà thơ “hướng nội”, chỉ chú tâm biểu hiện những cảm xúc, tư tưởng nội tâm. Thơ “hướng nội”, tất nhiên hình ảnh thơ cũng mượn ở ngoại giới, nhưng là hình ảnh ngoại giới bất kì. Nhà thơ “hướng nội” sống, mở mắt thật to và mở hết mọi giác quan khác của mình để thu nhận hiện thực xã hội, thiên nhiên bên ngoài, và lại lắng nghe âm vang của hiện thực dội vào lòng, rồi cứ tích chứa mãi trong lòng, cho đến khi nội tâm xuất hiện một tâm trạng, một cảm xúc – tư tưởng, bấy giờ mới viết thành thơ bằng những hình ảnh ấn tượng sẵn chứa trong tâm thức. Thơ “hướng nội” không miêu tả ngoại giới mà chủ yếu là nhà thơ tự biểu hiện nội tâm. Nói chung, thi pháp “hướng nội” ấy hoàn toàn khác với thi pháp của những nhà thơ “hướng ngoại” như Hà Linh Chi.
Cũng như các nhà thơ “hướng ngoại” khác, Hà Linh Chi trải rộng tâm hồn mình trên những vùng đất mình sống hay có dịp đi đến. Vùng đất Nam Tây Nguyên có tên sau Ngày Thống nhất (1975) là Lâm Đồng (gồm Lâm Đồng cũ và Tuyên Đức cũ), cùng tỉnh lị của riêng nó là thành phố Đà Lạt, chính là nơi trái tim thơ của nhà thơ Hà Linh Chi ôm trọn theo nhịp đập trong lồng ngực anh. Hầu như nhà báo Hà Linh Chi đã đi hết mọi nẻo đường, từ đường nhựa phố phường, liên huyện, liên xã đến đường đất, đường mòn của các làng thôn, buôn bản trong tỉnh. Đến mỗi nơi, anh ghi nhận và đồng thời cảm xúc, do đó, hầu hết mọi nơi trong tỉnh đều có thơ Hà Linh Chi viết về. Thơ anh như một loại bút kí thơ hay kí sự thơ. Như đã viết, tôi thấy yếu tố miêu tả con người, nhất là khung cảnh, sự vật ở các huyện, xã thuộc tỉnh Lâm Đồng, trong thơ anh, chiếm một tỉ lệ khá lớn.
Tuy vậy, ở các nhà thơ, thật sự không có một sự phân biệt rạch ròi “hướng ngoại” với “hướng nội”. Xếp nhà thơ này hoặc nhà thơ kia vào khuynh hướng nào, chỉ là sự tương đối, căn cứ vào thi pháp chủ yếu mà nhà thơ ấy thường xuyên vận dụng. Ở Hà Linh Chi, anh là nhà thơ chủ yếu nghiêng rõ về phía “hướng ngoại”, nhưng với những đề tài như hoài niệm quá khứ chẳng hạn, anh không thể không tự biểu hiện nội tâm của mình theo khuynh hướng “hướng nội”.
Màu hoa tuổi trẻ (10) và hơn 10 bài thơ khác của anh về đề tài hoài niệm là mảng thơ “hướng nội” của anh.
“không biết mùi hoa hay hương tóc em / thơm rất lâu trên áo tôi hồi đó / ta chia tay chiến tranh và tuổi trẻ / hương hoàng lan đôi lúc thoảng về” (10).
Hành hương (11) là một bài rất cảm động trong thơ hoài niệm của anh:
“… Hành hương về cứ cũ / Cây cỏ phủ lối mòn / Anh gục đầu gợi nhớ / Vật kỉ niệm mình chôn // […] Mạch đất ấm bàn tay / Bớt đi chiều gió lạnh / Bất chợt từng cơn gió / Bất chợt từng tiếng ai…”.
Thực ra, chiến trường Trị – Thiên mới là nơi anh cầm súng chiến đấu, chứ không phải Nam Tây Nguyên, cụ thể là các làng ngoại thành Đà Lạt. Nhưng Hà Linh Chi, với sứ mệnh nhà thơ, thơ anh có khi chỉ là lời nói thay cho những ai luôn hoài niệm, thương tiếc đồng đội nhưng không hề làm thơ, tuy rất cần nhà thơ nói hộ những cảm xúc, suy tưởng giùm họ. Hoặc những người lính xuất ngũ, nay đang đi khai hoang lập ấp, họ cũng rất cần được nhà thơ nói thay tâm sự của họ, chẳng hạn như bài Tâm sự mgười đội trưởng (12). Hà Linh Chi có nhiều bài “hướng nội” theo kiểu nói thay như thế. Nếu dùng thuật ngữ, thì đó là biểu hiện (nói thay, nói về đối tượng) bằng thủ pháp tự biểu hiện (nhập thân vào đối tượng để nói giúp – cái tôi trữ tình của tác giả thực ra là cái tôi của đối tượng). Ở trường hợp này, ấy là “hướng nội” nhưng thực chất là “hướng ngoại”.
Đề tài nhân tộc thiểu số, cụ thể là các sắc dân bản địa lâu đời như K’Hor, Chiau Mạa, Chil, ở Hà Linh Chi, trở thành một mối quan tâm thường xuyên của trái tim anh. Bài Giai điệu của đá viết về loại đàn đá nổi tiếng của Tây Nguyên là một thành công của anh:
“bao cuộc đời trên mạch đá rêu phong / bao ngọn lửa tàn vào hoang lạnh / bao chiếc lá chìm trong suối vắng / sớm nay về trong tiếng đá vang ngân // sớm nay về trên nét mặt của em / địu con sau lưng cầm chày trước ngực / gõ lên đá điệu tâm hồn cháy rực / cho rung vang toàn vẹn những tấm lòng // đá hát thành lời cho trời cao hơn / sợi dây rừng rung rinh chìm nổi / âm thanh cao cho tóc em xanh mãi / âm thanh trầm từ mắt mẹ thẳm sâu // những năm động rừng đá chẳng mòn đâu / đói muối dời buôn theo người bền bỉ / những giai điệu âm thầm chung thuỷ / lại rung lên cùng đất nước hồi sinh // em hãy nhập vào xa thẳm thời gian / từ tiếng gõ rất êm trên mặt đá / nghe lịch sử nghìn năm về rạng rỡ / bên ché rượu cần và ngọn lửa tình yêu” (13).
Ở giờ phút thưởng ngoạn ấy, dĩ nhiên Hà Linh Chi không nghe hoặc đọc lịch sử qua những bài trường ca sử thi hoặc những truyền thuyết, anh cảm nhận qua tiếng đàn đá được gõ bằng chày, qua cả những rung cảm của người đàn bà trẻ địu con vốn là nghệ sĩ dân gian ấy. Lịch sử nghìn năm Nam Tây Nguyên thật sự là một thứ sử vô ngôn vô tự và sinh động. Lịch sử ấy chỉ hiển hiện ở những con người đang sống. Mỗi người là một trầm tích đồng thời là một tiếp nối. Âm nhạc của họ là một biểu hiện của lịch sử ấy. Và lịch sử ấy từ nghìn năm vọng về nhưng cũng toả ra cho đất và trời hiện tại, cho mái tóc xanh trẻ tuổi và ánh mắt sâu người già. Hà Linh Chi miêu tả sức bền của đá, thực ra qua năm, bảy thanh đá kia, Hà Linh Chi thể hiện lòng người thuỷ chung và nghị lực chân cứng đá mềm của người K’Hor, Chiau Mạa, Chil bao đời lên rừng xuống rẫy. Ché rượu cần và ngọn lửa đêm miền núi sương lạnh vẫn là hình ảnh kết đọng của lịch sử Nam Tây Nguyên. Rượu cần nồng ấm và ngọn lửa tình yêu, đâu chỉ là yêu đương đôi lứa, mà chính là tình yêu sâu thẳm thời gian, bát ngát không gian Nam Tây Nguyên!
Dẫu là người Kinh đặc sệt giọng nói Thừa Thiên, không pha lẫn chất Bắc hay chất Nam, Hà Linh Chi vẫn thể hiện được chính mình như là một người đồng bào thượng du Nam Trung bộ – Nam Tây Nguyên, với tất cả chiều sâu của trái tim mình. Hai đại từ “em” và “mẹ” của anh rất đỗi ruột rà!
Miêu tả, một đặc điểm của thi pháp “hướng ngoại”, được nhà thơ Hà Linh Chi vận dụng thành công một cách nhuần nhị trong bài Giai điệu của đá này. Cái tôi trữ tình của tác giả chỉ thấp thoáng ở bình diện phụ, rất mờ nhạt, đúng như ý định nhà thơ là cố giấu mình đi, hay đúng hơn là người đọc biết có nhà thơ đang miêu tả, cảm xúc, suy nghĩ “hướng ngoại”, nhưng hầu như chẳng thấy nội tâm riêng tư của nhà thơ ở câu thơ nào; cho đến đoạn kết của bài thơ, mới thấy lời nhắc nhở đầy thương mến của tác giả. Trong khi đó, ở bình diện chính, hình tượng xuyên suốt, bao trùm, toả sáng khắp bài thơ vẫn là người đàn bà trẻ – nghệ sĩ dân gian sắc tộc ấy và chính nội tâm của cô mà nhà thơ cảm nhận được.
Anh còn có một bài viết về một ngôi trường ở một buôn làng nhân tộc ít người. Đây là bài thơ anh gửi tặng tôi (TXA.), khi tôi đã rời bỏ khỏi Trường Phổ thông trung học Đức Trọng. Anh viết về một nơi (trường Ka Đơm) nhưng lòng hướng về một nơi (trường Đức Trọng). Có thể đây là một hình thức không phải hiếm thấy ở các nhà thơ, như thể Nguyễn Gia Thiều mượn chuyện các cung nữ trong cung cấm để oán trách vua chúa không biết đến bốn chữ “chiêu hiền đãi sĩ” (Cung oán ngâm khúc). Tất nhiên “so sánh” nào cũng khập khiễng. Nhưng dẫu vậy, ở nghĩa nổi (hiện nghĩa), bài thơ vẫn là một thành công khác của anh về đề tài các nhân tộc miền núi:
Nơi mùa xuân em qua (14)
(Gửi TXA.)
“mùa xuân này em có về Ka Đơm / con đường dốc đầy cỏ gai giăng mắc / sương trắng lạnh sau giờ tan lớp / hoa trinh nữ hồng ngọn nắng đầu tiên // em đi rồi con đường dài hơn / cu rúc kêu buổi chiều khắc khoải / nước củ mì mắt bạn bè nheo lại / tìm dáng em bên bếp lửa nồng nàn // pạp (@) nhớ em ngồi chẻ lạt đan sàng / kể chuyện em dạy trẻ thơ đọc chữ / tóc lộng gió và nụ cười rộng mở / trời mưa to vẫn ra lớp ra trường // nơi quãng đường tôi đã gặp em / bên chiếc cầu em vô tình rơi bút / dòng sông ấy vẫn dịu hiền trong suốt / mực từ bút em xanh mãi theo dòng… // Ka Đơm bây giờ con đường cao hơn / bãi sình lầy đã xanh um lúa nước / những ngôi nhà đỏ tươi mái lợp / hoa cà phê thơm suốt những lô vườn // bên ché rượu cần vít cong hơi men / hương mùa gặt quyện tròn chiêng sáo / những cô gái cởi trần sàng gạo / đôi vú căng tròn lắt lay // tiếng trẻ học bài xanh mướt hàng cây / hoa quỳ vàng xốn xang đồi núi / như ngọn lửa, dòng sông em nhắn gửi / nhớ thương hoài trong sắc gió Ka Đơm”.
(Đà Lạt, 19. 11. 1983)
Viết về những vùng đất khai hoang lập ấp (vùng “kinh tế mới”) là đề tài thứ ba Hà Linh Chi quan tâm. Là một nhà thơ có quê gốc là Thừa Thiên – Huế, Hà Linh Chi viết về Huế bằng những câu thơ rất Huế. Có cả mươi bài rất Huế ở Lâm Đồng như thế. Đúng như anh Nguyễn Cửu Sử, một trong vài vị lãnh đạo của khu kinh tế mới Hương Lâm (sông Hương và Lâm Đồng) hồi ấy thường nói với bà con cô bác ở đó: “Đem Huế vào theo, chứ không phải bỏ Huế mà đi”.
“sau những ngày mở đất /ngọt ngào mùa sinh sôi / từ cao nguyên tít tắp / đã nghe Huế chào mời // […] chẳng có chi mua bán / cũng ưa đi chợ hoài / để nghe Huế nói cười / từ cao nguyên đầm ấm” (15).
“Sương xuống nhiều nên chưa rõ mặt em / Sông chảy giữa hai bờ rừng lặng lẽ / Nghe giọng hò biết em còn trẻ / Điệu mái nhì nghe hát ở cao nguyên // Anh ra bờ để nghe rõ giọng em hơn / Tiếng quê hương nơi miền đất lạ / Nón nghiêng nghiêng và lời ca thoảng gió / Tưởng như mình đắm giữa sông Hương …” (16).
Nhà thơ Hà Linh Chi luôn hướng cảm xúc – suy tưởng của mình ra với cuộc sống như thế. Nhưng cuộc đời luôn tồn tại những niềm vui, ít ra cũng là niềm vui trong dự cảm, hi vọng, giữa thời đoạn cực kì khó khăn gian khổ của đất nước, đồng thời ở bên cạnh hoặc ở phía mặt kia của niềm vui, dự cảm lạc quan là những đau đớn, những bức xúc, vì những khó khăn đó một phần là do chủ quan của những người lãnh đạo cấp này, cấp kia. Với trái tim nhà thơ, trước bối cảnh như vậy, Hà Linh Chi không thể vô tâm, vô tư và anh không thể không có một mảng thơ thứ tư, ấy là thơ thế sự.
Nỗi mong của người lượm củi (17) hồi mới được Hà Linh Chi viết ra ở dạng bản nháp, đã khiến những vị lãnh đạo và những viên “cớm” rất bực bội. Do đó, bài thơ không được anh trau chuốt lại! Tuy hơi thô sơ, nhưng chính vẻ thô sơ như chất dân dã đó cùng ý tưởng táo bạo của nó, hồi 1982, chưa được cởi trói (****), lại lan truyền khá nhanh bằng cách “xuất bản miệng” hoặc chuyền tay bản chép.
“… đã từng xanh tốt một thời / đã từng toả mát cho đời bóng râm / yếu mềm gãy trước bão giông / chẳng rơi xuống đất còn mong nỗi gì / đã khô dòng nhựa đi về / nặng thân cây lại còn đè chồi non / đã không hoa lá bóng tròn / vui làm nhánh củi về đun cho rồi // ước chi trận gió nổi dài / cành khô rơi xuống được nồi cơm sôi”.
(Đà Lạt, 25. 02. 1982)
Đó là phản ứng của một nhà thơ có trách nhiệm trước hiện thực xã hội với những khó khăn thật, do nguyên nhân khách quan (tình trạng hậu chiến, lại bị cấm vận), và những khó khăn giả, do nguyên nhân ở phía chủ quan, ấy là óc thủ cựu và tham quyền cố vị của các vị lãnh đạo, mặc dù trong qua khứ họ cũng rất có công lao. Sự kiện bài thơ này ở Lâm Đồng cũng như sự kiện Phạm Thị Xuân Khải ở báo Tiền Phong sau đó vài ba năm. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rõ, Hà Linh Chi hoàn toàn xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm của chính anh, để viết bài thơ đó.
Người thợ mộc và vân gỗ cẩm lai (18) là một bài thể hiện một cách hình tượng quan điểm dùng người rất cổ điển, theo kinh nghiệm nhiều đời truyền lại (dụng nhân như dụng mộc) và theo cái tâm trong sáng, vì trách nhiệm chung, vì số phận của mỗi con người, mỗi trí thức cụ thể. Nhà thơ Hà Linh Chi viết:
“Ba đời làm thợ mộc / Tôi thuộc lòng từng thớ gỗ trên tay / Thẳng làm thước, cong làm giằng xay / Súc gỗ quý có thể nào bỏ được? //Anh hãy nhìn thật kĩ / Nét hoa văn anh chưa gặp trong đời / Thứ gỗ này ngoài quê mình không có … //[…] Những đường vân kì lạ / Chỉ cần đẩy nhát bào sắc, nhẹ / Cả sắc trời khoáng đãng sẽ bừng lên // […] Nét hoa văn nghìn năm rừng già / Trong tầm mắt nhìn xa / Và, giọng trầm thiết tha người thợ: / - Mỗi loài cây có đường vân riêng / Làm sao để từng thớ gỗ / Được hiện hình toàn vẹn nét hoa văn!”.
Bài thơ Khoảng sáng trên trần nhà (19) đích thực là một bài thơ “đau đời” (nói theo từ ngữ hồi đó):
“có một ngày bất chợt quãng trời xanh / ập vào mắt tôi cái nhìn trẻ nhỏ / tôi bước đi – như người vỡ nợ / ôi dò phong lan – anh có lỗi với em! // tưởng có lúc chìm vào lãng quên / đất dưới chân ngỡ ngàng xa lạ / những dãy phố buồn thiu quán trọ / tôi chỉ còn là nỗi đau của em // tôi nhìn lên khoảng sáng mênh mông / viên ngói vỡ nên chẳng còn lăng kính / một ngôi sao ban ngày lóng lánh / cuối trời xa // có tiếng chim qua khoảng trống dội về / nghe trong vườn màu địa lan thắm đỏ / lặng im ngọn lửa / tôi làm thơ trong khoảng sáng riêng // và tôi nói với mình / như rễ cây nói vào lòng đất / sau mây là ngôi sao xanh / soi thấu mọi điều trên bàn tay anh”.
Phải nói ngay rằng, đây là bài thơ tâm trạng “hướng ngoại” thành công nhất của nhà thơ Hà Linh Chi. Anh đau nỗi đau đời, đau vì cuộc đời trì trệ, trầm uất, bởi những nguyên nhân sâu xa của chính thói đời… Chính vòm trời cao trong veo kia đã cho anh một cái nhìn của trẻ nhỏ, tuy vô tư nhưng đầy oán trách và lắm dấu hỏi. Cái nhìn ấy tự xoáy vào anh, tạo nên trong trái tim anh một vết thương đau đớn, và anh biết nhận trách nhiệm về mình, vô hình trung cũng phê phán những ai như mình. Bầu trời thì thế, còn đất đai dưới chân? Anh không thể lẫn trốn trong lãng quên! Đất không nhận anh là người con ruột thịt của đất nữa, như thể bởi chính anh đã góp phần làm Đà Lạt điêu tàn, hoang phế đến thế! Từ tâm trạng dằn vặt đó, bằng cách gút lại tứ thơ trong các ẩn dụ: viên ngói trên trần nhà đã vỡ, vỡ cả lăng kính của mắt nhìn, để xuyên qua khoảng sáng chân thực ấy, anh nhìn thấy rõ một vì sao xanh biếc của thiên nhiên đất trời đang nhìn anh, thấu hiểu anh, đọc hết những bài thơ anh đang viết. Điểm sáng thẩm mĩ hay còn gọi là nhãn tự của bài thơ chính là hai chữ lăng kính. Theo thành ngữ, người ta thường nói, nhìn đời qua lăng kính màu gì, cuộc đời sẽ là màu đó (tươi hồng, xanh mát hay vàng chói, đen tối?). Theo đó, cái nhìn không lăng kính có nghĩa là cái nhìn không bị định kiến làm đổi màu, sai sự thật. Hãy nhìn thẳng vào thực chất xã hội, con người bằng cái nhìn chân thực như xã hội, con người đang hiện hữu. Đừng nhìn bằng lăng kính định kiến. Đừng nhìn bằng lăng kính xuyên tạc. Đừng nhìn bằng lăng kính giáo điều. Nhà thơ Hà Linh Chi muốn mọi người đừng bị ý hệ và niềm tin tôn giáo (qua biểu tượng lăng kính) làm cái nhìn sai lệch, bị “nhuộm màu”!
Đối với nhà thơ Hà Linh Chi, đó là một trong vài bài thơ quan trọng nhất và thành công nhất của anh. Hà Linh Chi, bằng thơ của mình, đã góp phần tác động, mở đường cho công cuộc Đổi mới (1986) và Cởi trói (1987). Sống với trái tim nhạy cảm và một trí tuệ sắc sảo, anh nhìn thẳng vào hiện thực xã hội, và hiện thực ấy đã thức ngộ cho anh như thế.
Ngoài mảng thơ viết về chiến trường Trị – Thiên trước Ngày Thống nhất (1975), tôi những muốn gọi những mối quan tâm thơ của anh về thực trạng cuộc sống xã hội, ở Lâm Đồng và khắp đất nước (giai đoạn 1976 – 1994) bằng bốn tên gọi: hoài niệm chiến tranh, tấm lòng nhân tộc, đất mới, và nỗi đau đời, như một cách cô đọng lại những gì thơ anh đã thể hiện, và tôi đã cảm nhận.
Chung quy, nhà thơ Hà Linh Chi là một thi sĩ hướng trái tim và mắt nhìn của mình ra với cuộc sống xã hội, chứ không chăm chú vào bên trong nội tâm riêng tư. Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế và chủ yếu là Lâm Đồng là ba vùng đất anh sống và làm thơ. Chỉ riêng mảng thơ trong giai đoạn 19 năm (1976 – 1994) anh sống và viết tại vùng đất Nam Tây Nguyên ấy, với những gì anh quan tâm, không còn là thơ của riêng một tỉnh mà đã thành thơ của cả một giai đoạn đất nước trong cơn đau trở dạ thời hậu chiến.
Rất tiếc, anh đã mất cách đây mười năm.
Mười năm qua, hiện thực Đổi mới và Cởi trói lại có những vấn đề của nó. Những vấn nạn thuộc về giai đoạn trước đó chưa được giải phóng một cách thật triệt để, mà càng trói buộc thêm những gì cần tháo mở (như nội dung khái niệm nền độc lập, tự do, dân chủ chân chính, gồm cả quyền độc lập, tự do, dân chủ cụ thể cho mỗi con người…), lại tháo mở những gì lẽ ra phải kìm chế (như thói ăn chơi, “đầu độc” tuổi trẻ…). Vòng lẩn quẩn của cuộc sống xã hội đôi khi y hệt một câu Kiều, “cởi ra rồi lại buộc vào như chơi”; và khi đã bị thắt vào, phải có một xung lực nội tại để nó lại tháo ra… Phải chăng biện chứng của hiện thực nước ta là thế? Tôi cảm thấy tiếc biết bao khi anh Hà Linh Chi không còn có thể làm thơ được nữa, bởi cái chết đã cướp anh đi. Dẫu sao, thơ anh và những mối quan tâm của anh về cuộc sống Lâm Đồng và cả nước vẫn còn đó trên những trang sách, trong bao tấm lòng bè bạn.
Làm sao quên được anh Hà Linh Chi!
Tôi mãi còn nhớ các tuyển tập thơ nhiều tác giả thuở ấy, Đất gọi thầm, Như anh em một nhà, và sau đó, khi tôi đã rời khỏi Lâm Đồng, là Đà Lạt, thơ. Mấy bài thơ tôi viết tặng anh, về sau, tôi đã in lại trong các tập thơ riêng đã xuất bản, trước hết là như một cách lưu giữ những kỉ niệm khó quên…
Làm sao quên được anh Hà Linh Chi!
4
Gặp nhau
“”Kính tặng anh Hà Linh Chi
“rất lâu mới gặp nhau / cánh tay như sóng biển / trên vai tôi, sóng choàng / tôi như hòn đảo nhỏ / đứng lặng trong nỗi mừng // rất lâu mới gặp nhau / chén rượu chiều sóng sánh / bài thơ “chiều củi rụng” (*****)/ đập vào vách đá im / nước mắt tràn trong đêm // rất lâu mới gặp nhau / cười đó rồi khóc đó / có khóc thì khóc thầm / có cười thì cười vỡ / sóng vỗ bờ đảo xanh // rất lâu mới gặp nhau / rượu cuồng đêm tâm sự / sáng ra còn làm, ăn / sóng còn ru đời nữa / đảo còn vui chim muông // rất lâu mới gặp nhau / để biển thêm tiếng sóng / đảo xanh vì mai sau / biết thế nào mà hẹn / tóc còn xanh trên đầu…”.
xanh vì mai sau / biết thế nào mà hẹn / tóc còn xanh trên đầu…”.””
1982
Ngôi nhà bên thung lũng sương
“”Kính tặng anh Hà Linh Chi và chú Hồ Phú Diên
“từ một nơi xa xôi tôi trở về thành phố / con dốc cao, đồi cỏ mượt, nắng vàng/ hoa! / hoa rung vào lòng bao thanh âm rạng rỡ / nghe hương mùa thơm trong lá thông / tôi lại về với nơi tôi thường nhớ / gió bồi hồi chiều ơi yêu thương // ngôi nhà bên thung lũng sương / chiều tháng tám, nắng đọng lại đằng sau khung cửa / lồng ngực rộn ràng, ngón tay khẽ gõ / (anh chị ơi, anh chị ơi, em đã về nhà) / và nắng ấm ùa ra… / tôi đứng ngẩn ngơ / giữa những nụ cười quây quần rất trẻ / siết chặt tay tôi là những bàn tay tin yêu nồng nhiệt thế / tôi biết nói gì, ân nghĩa ấy, bao la // dẫu giọng đọc đã khàn đi sau hai mùa kháng chiến / ánh mắt vẫn trong ngần soi nắng xuống trang thơ / ta hoà vào nhau từ mạch nguồn sâu thẳm / (ghềnh thác gian lao để sâu lắng lòng hồ) / tôi biết nói gì, ân nghĩa ấy, bao la // căn phòng đầy ắp tiếng thơ / vang vọng đêm rừng già thác đổ / vang vọng tiếng rơi thầm của máu / tiếng reo xanh bên đường phố, sớm mai / cả tiếng thở dài trong bóng tối, lẻ loi… // âm hưởng tự cõi người / cho mỗi trái tim rực đỏ / cho lòng ta bồi hồi / tôi biết nói gì? thơ hãy nói giùm tôi! // và Đà Lạt ơi! / thành phố rất thân yêu mà cả cuộc đời tôi / sao nhận hết vào lòng bao thanh âm rạng rỡ / sao hiểu hết con dốc cao, ngọn đồi xanh mướt cỏ / sao nghe hết hương mùa thơm trong lá thông… / nếu chẳng đến với nơi xa thành phố – / ôi những tấm lòng từ nguồn mạch yêu thương // nắng hừng đông ấm lên trong ngôi nhà đó / khung cửa mở ra mọi phía chân trời / tôi lại đến với nơi tôi vẫn ở / chào thung lũng sương long lanh sớm mai”.
nơi tôi vẫn ở / chào thung lũng sương long lanh sớm mai”.””
1982
Sau khi chép lại hai bài thơ Gặp nhau và Ngôi nhà bên thung lũng sương vào bài viết này, tôi lặng người đi, và cảm thấy không nên viết thêm một dòng nào nữa, vì như thế cũng đã đủ để nhớ lại những kỉ niệm… Kỉ niệm, mười năm nay đã là kỉ niệm trong niềm tưởng tiếc, kỉ niệm ấy biết nói thế nào cho đủ!
Tuy vậy, hi vọng là cũng chẳng sao, nếu có thêm một vài câu như thể là ghi chú cuối bài này.
Lẽ ra, ở bài thơ Gặp nhau, tôi phải rút gọn tứ thơ Nỗi mong của người lượm củi đúng như anh Hà Linh Chi viết, là “bài thơ ‘chờ củi rụng’”, chứ không phải ‘chiều củi rụng’. Nhưng sử dụng chữ “chờ” sẽ khiến những vị lãnh đạo thuộc loại thủ cựu và maoisme đang tại vị thời bấy giờ chạnh lòng, chột dạ. Chưa hẳn các vị ấy biết đến bài thơ của tôi và bài Nỗi mong của người lượm củi tôi đã nhắc tới, nhưng các viên “cớm” sẽ gây khó dễ, thậm chí là chụp xuống đầu chúng tôi những tai hoạ. Tốt nhất là xem như củi đã rụng rồi sau đợt thanh lọc những cán bộ các cấp bị đánh giá là maoisme, chẳng hạn như Hoàng Văn Hoan. Tôi xem củi rụng cũng là một nỗi đau thuộc loại bi kịch về tranh giành ảnh hưởng giữa hai cường quốc Nga và Trung, mặc dù tôi không thích những kẻ như Hoàng Văn Hoan… Tôi chỉ nghẹn ngào khi nghe bài thơ Nỗi mong của người lượm củi của anh Hà Linh Chi.
Thật sự, tôi và anh Hà Linh Chi chỉ ước ao các vị lãnh đạo tỉnh sẽ cho thành lập Hội Văn nghệ Lâm Đồng, để ra được một tập san văn nghệ, và chỉ có vậy. Nhưng thời bấy giờ, đó là cả một vấn đề! Thật quá mức nghiệt ngã, hẹp hòi, đến mức ai có chút máu văn nghệ cũng phải xin rời khỏi Lâm Đồng hoặc bị đơm bẫy, bị ép, bị đuổi khỏi tỉnh đó!
Mặt khác, tình hình tại Lâm Đồng thời ấy còn có một luồng sức ép ngấm ngầm nhưng rất kinh khủng khác nữa, chứ chẳng riêng phía các “cớm”. Đó là catholique… Có một chi tiết xem ra cũng khá buồn cười: “cớm” (công an) hay catholique cũng đều được viết tắt là CA.!
Về những kỉ niệm ở Lâm Đồng và riêng tại Đà Lạt, tôi đã viết ít nhiều trong cuốn tiểu thuyết Ngôi trường tháng giêng (*), qua phương thức hư cấu (thay đổi về tên tuổi, nhân dạng, giọng nói và một vài chi tiết nhỏ khác), nhưng vẫn rất thật. Nhân vật Cao Hồng Thứ, đó là anh Hà Linh Chi, và ông Võ Phả không là ai khác, mà chính là chú Hồ Phú Diên, một người vốn xem tất cả mọi nguồn mạch của chủ nghĩa yêu nước, cho dù qua thác, qua ghềnh, rồi cũng đều đổ về một sông, một hồ, một biển.
Trong tập Lời đá, nhà thơ Hà Linh Chi có bài thơ Một câu thơ nửa chừng (20), viết về một lần anh xuống Thuận Hải thăm chú Hồ Phú Diên, sau khi chú ấy chuyển công tác về tỉnh đó, với lời đề tặng “Nhớ anh H. P. D.”.
“… Cái giọng anh rè khàn / qua bao mùa mưa nắng / vẫn bồi hồi sâu lắng / vẫn tin yêu nồng nàn / trong gió lùa từng cơn …”.
Thế mà người trước, người sau, hai người kính mến ấy đã trở thành thiên cổ!
Kỉ niệm trong niềm tưởng tiếc, xin hãy cùng nén hương trầm toả ngát…
TP. HCM., khởi viết từ 06 giờ 59 phút, ngày 28. 10. HB4 (15. 09. G. thân HB4);
viết xong lúc 11 giờ 19 phút, ngày 29. 10. HB4 (16. 09. G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(1) Hà Linh Chi, Lời đá (LĐ.), tập thơ, Lời giới thiệu, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM. & Hội Văn nghệ Lâm Đồng, 1995, tr. 4.
(2) LĐ., sđd., tr. 34 – 35.
(**) Những chữ đầu mỗi dòng thơ viết hoa hay không, tôi giữ nguyên theo cách trình bày của tác giả (hẳn Hội Văn nghệ Lâm Đồng & Nxb. Văn Nghệ TP. HCM. cũng giữ nguyên như thế).
(3) LĐ., sđd., Lời giới thiệu, tr. 3 & phần gấp bìa 1: Hà Linh Chi được sinh ra đời ngày 09. 10. 1940, mất ngày 21. 06. 1994.
(***) Đại để, ý nói: Nước Việt Nam chúng ta mang “di căn nhược tiểu, nô lệ”, quá lệ thuộc vào Nga Xô-viết [Cộng hoà Liên bang Xô-viết do Nga đứng đầu] (và Trung Cộng). Diễn đạt theo ngôn từ minh xác của sử học: Chính vì sự lệ thuộc đó, nên một phân số không ít trong dân tộc Việt Nam ta không tham gia phong trào Xô-viết Nghệ – Tĩnh (1930 – 1931), cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp (1945 – 1954) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân số nhân dân ấy, từ đó về sau (1954 – 1975), lại bị kẹt giữa hai gọng kìm lịch sử “tả đạo” (Thiên Chúa giáo) và chủ nghĩa vô thần cộng sản, nên phải dựa vào một bên để lần lượt bẻ gãy hai gọng kìm đó, theo phương cách nhu thuật. Với tinh thần sử học xác thực và công bằng, tôi viết rõ ý tưởng này, ngõ hầu giảm bớt sự ngộ nhận về những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thuần tuý, trước đây thường bị xếp chung nhất loạt là “ngụy”, và để góp phần tạo nên niềm cảm thông, hoà giải dân tộc. Chỉ có lực lượng Thiên Chúa giáo và những tên tay sai của thực dân, đế quốc mới đích thực là ngụy.
Những dòng chú thích trên, tôi viết thật rõ như vậy, mục đích chính là để người đọc cảm thông được bối cảnh xã hội nước ta nói chung và riêng ở Lâm Đồng. Đó là một thời đoạn trong xã hội vẫn còn nhiều sự xung đột tư tưởng, chính kiến một cách ngấm ngầm hoặc khá lộ liễu, do đó không thể không tác động đến người làm thơ, viết văn, trong đó có nhà thơ Hà Linh Chi. Có thể diễn đạt tình hình xã hội – sáng tác bằng các thuật ngữ văn học: đó là bối cảnh xã hội với các xung đột mâu thuẫn của nó trong tương quan với tâm thế sáng tác văn chương của nhà thơ, nhà văn và mối quan hệ giữa họ với nhau…
Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản đã sửa chữa, bổ sung lần thứ ba, in vi tính ngày 19. 12. 2003 (trọn vẹn gồm 745 trang [kể cả phần chú thích, phụ lục] và phần ngoài sách gồm 15 trang [một bài thơ viết về Quang Trung cùng các chú thích sử học], cỡ sách 13 cm x 19 cm).
(4) LĐ., sđd., bài Cây sô-la-num nở hoa, tr. 34 – 35.
(5) LĐ., sđd., bài Tôi bơi qua dòng sông, tr. 14 – 15.
(6) LĐ., sđd., tr. 5 – 6.
(7) LĐ., sđd., tr. 7 – 9.
(8) LĐ., sđd., bài Sông suối miền Trung, tr. 14 – 15. Tôi dùng hai từ Miền Nam, Miền Bắc (đều viết hoa) để chỉ hai phần Đất nước, bị chia cắt ở sông Bến Hải (1954 – 1975). Từ “miền Trung” ở đây tương tự như Trung Kỳ (Bình Thuận – Thanh Hoá).
(9) LĐ., sđd., tr. 22 – 24.
(10) LĐ., sđd., tr. 29 – 30.
(11) LĐ., sđd., tr. 44.
(12) LĐ., sđd., tr. 58 – 59.
(13) LĐ., sđd., tr. 76.
(14) LĐ., sđd., tr. 38 – 39.
(@) Pạp: bố (chú thích của Hà Linh Chi).
(15) LĐ., bài Đi chợ may xưa, sđd., tr. 67 – 68.
(16) LĐ., bài Điệu mái nhì nghe hát ở thượng nguồn sông Đồng Nai, sđd., tr. 67 – 68.
(17) LĐ., sđd., tr. 88.
(****) Sự kiện Cởi trói do tổng bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng, năm 1987.
(18) LĐ., sđd., tr. 87.
(19) LĐ., sđd., tr. 91 – 92.
(*****) Xin xem bài Nỗi mong của người lượm củi của Hà Linh Chi, chú thích (17).
(20) LĐ., sđd., tr. 47 – 48.
Đã gửi: (30. 10. HB4)
Chị Kim Chi (vợ anh Hà Linh Chi)
(để được góp ý).
_____________________________
Bài thứ mười
Phụ lục 1:
MỘT VÀI YẾU TỐ TRONG SÁNG TẠO
& TIẾP-NHẬN-ĐỒNG-SÁNG-TẠO
Trong văn chương, cả trong nghệ thuật nói chung, không hiếm trường hợp tác giả bị (hoặc được) đồng nhất với nhân vật, tâm trạng tác giả đồng nhất với tâm trạng trữ tình trong tác phẩm. Tố Như đồng nhất với Kiều, Ôn Như Hầu đồng nhất với cung nữ, Đặng Trần Côn đồng nhất với chinh phụ, thậm chí có tác giả đồng nhất với loài vật như Thế Lữ với con hổ, vân vân, có thể là những suy diễn có lí, cũng có thể rất khiên cưỡng (*). Nhưng Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp không thể là thôn nữ “lỡ bước sang ngang” và cô bé đi chùa Hương! Tuy nhiên, sự đồng cảm hoặc cảm thông sâu sắc giữa tác giả với nhân vật trữ tình, kể cả cái tôi khách thể được biểu hiện dưới dạng tự biểu hiện (như Lời kĩ nữ của Xuân Diệu, đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, vốn được xem là một bài thơ hoàn chỉnh rất hiện đại, của Nguyễn Du), vẫn là điều tất nhiên, mặc dù tác giả là tác giả, nhân vật là nhân vật, cái tôi tác giả khác với cái tôi trong tác phẩm, đối chiếu và kiểm xét trên mọi mặt.
Ở tất cả mọi trường hợp, mọi tác giả đều tự nội quan, tự nghiền ngẫm từng ngóc ngách vi tế của thế giới chủ thể bên trong và suy nghiệm thế giới khách thể bên ngoài từ sự quan sát, tiếp xúc, cọ xát với đủ mọi tầng lớp người, mọi quan hệ xã hội – tự nhiên, để có thể vận dụng vào quá trình hư cấu, sáng tạo. Tuy nhiên, từ đó, cũng làm sao có thể đồng nhất hoá nhân vật, tâm trạng trữ tình với đời riêng của tác giả, tâm trạng của tác giả theo sự suy diễn chủ quan!
Nếp cảm nhận đồng nhất hoá ấy cố nhiên đã ít nhiều ràng buộc, kìm hãm sự tự do sáng tạo, khả năng, tiềm lực sáng tạo của biết bao nghệ sĩ. Có lẽ cần xác định rõ những ranh giới khá mơ hồ của các phương thức phản ánh. Đó là một việc quá khó trong thực tiễn viết và đọc. Bởi lẽ, làm sao biết được đúng và đủ mọi ngóc ngách sâu kín với nhiều nghịch lí phức tạp, nhiều biến thiên kì quái lạ lùng của tâm thức, kể cả vô thức của con người! Chưa kể, nhiều tác giả mạnh dạn thể hiện cái dục vọng phổ quát một cách tự nhiên chủ nghĩa, khai thác cái bản năng trắng trợn và ẩn kín, chạy trốn cái tôi thực hữu và hiện thực xã hội để ẩn núp vào mịt mù bí hiểm, siêu thức và siêu thực, như một khám phá, sáng tạo, đổi mới, như một thoát li thực tại, hoặc nhằm mục đích hạ bệ Con Người (viết hoa) với ý đồ ngoài nghệ thuật. Tuy nhiên, trong tầm nhìn cởi mở, không nên cảm nhận nghệ thuật một cách máy móc. Đâu là tái hiện trung thực, lạnh lùng? Tái hiện lãng mạn? Đâu là lãng mạn thuần chất? Viễn tưởng? Hoài niệm? Dự phóng? Thần tiên? Đâu là tái hiệp bóp méo, cường điệu kiểu biếm hoạ? Bôi đen? Tô hồng? Lấy cái cá biệt làm cái điển hình? Đâu là chỗ đứng và tâm thế của người phản ánh trong một thời điểm nhất định? Chính các tác giả cũng mơ hồ về bản thân, bởi có ai hiểu hết thế giới bên trong của chính mình, nữa là người đọc và người nghiên cứu! Vô thức, tiềm thức thường xuyên tham dự vào quá trình sáng tạo là một lẽ. Lẽ khác, chính các tình tiết cấu tạo nên tác phẩm, ngoài việc thể hiện tầng nghĩa cơ bản, còn tự chúng tạo nên nhiều lớp nghĩa khác. Lẽ khác nữa, người đọc đã đồng sáng tạo trong quá trình tiếp xúc với hình tượng bằng cả con người mình. Và, bản thân hình tượng như một thực thể sống mà tài năng của nghệ sĩ chỉ ghi nhận, tái tạo hoá theo cách riêng của mình và dẫu muốn cũng không thể thấu hiểu đến mức tận cùng của thực thể ấy! Như bất kì thiên tài nào khác, Nguyễn Du chắc chắn sẽ bật ngửa trước phát hiện của người thưởng ngoạn thuộc vạn thế hệ sau ông, khi họ thưởng thức tác phẩm của ông! Cũng như đối với trường hợp Nguyễn Du, người đọc có thể không chia sẻ, đồng ý, đồng tình với tư tưởng triết luận của Lép Tôn-xtôi (Léon Tolstoi) nhưng những hình tượng nghệ thuật mãi mãi chinh phục người đọc ở mọi không gian, thời gian và mãi mãi mời gọi khám phá, sáng tạo. Hình tượng Yê-su (Jésus Christ) trong Kinh thánh cũng vậy. Nhiều nghệ sĩ đã tiếp nhận hình tượng này không giống nhau, ngay cả nhận thức của nhiều giáo sĩ, giáo phái Ki-tô (Christo) cũng khác nhau! Có thể nói thế này được chăng, tác giả dù sinh nở, tạo hoá ra hình tượng, nhưng bản thân hình tượng vẫn có những tầng nghĩa khách quan mà tác giả không ngờ đến?
Nếu quả thật như vậy, nghệ sĩ sáng tác bị đặt vào thế phải thường xuyên chỉnh đốn, cải thiện tâm thức, thường xuyên tu tâm, thường xuyên soát xét các giác quan (ngũ quan, lục thức) dù dấn thân, nhập thân vào tận cùng thực tế cuộc sống trong giới hạn cho phép, như một cách cải tạo và cảnh giác các mầm độc do tập nhiễm hoặc do bản năng gốc mang tính phổ quát của sinh vật. Phải chăng đấy chính là phương thức cốt tuỷ của các thiền sư? – Thường xuyên quét bụi, tắm rửa tâm linh? Thường xuyên làm vệ sinh vô thức, tiềm thức? –. Phải chăng, từ đấy mà tạo được thần sắc, thần tướng cho một và nhiều Cái Đẹp nghệ thuật của các nghệ sĩ và ngay trong phong thái nghệ sĩ? Tu tâm và tu tài phải là một nỗ lực suốt đời thì nào ai dám tự bảo mình đã thành chánh quả trong nghệ thuật! Ngay trong tác phẩm của nhiều bậc thánh, nhiều hiền giả cũng còn nhiều tì vết đạo hạnh và hạn chế lịch sử đáng nói! Vấn đề ý tại ngôn ngoại dù có ý thức hay không ý thức, quả lắm vấn đề, trong đó có vấn đề trách nhiệm đối với người đọc. Phải chăng một nền văn hoá, văn nghệ sinh động phải luôn được phê bình và tự phê?
Cần được thông cảm như vậy để bớt đi những ngộ nhận, những trói buộc bởi định kiến. Và nghệ sĩ cũng không muốn tung hoả mù vào tác phẩm và thẩm thức!
Khuynh hướng chung toát ra từ tác phẩm mới đích thực là một hoặc tất cả các khía cạnh tư tưởng, tình cảm và lí tưởng thẩm mĩ (bao gồm quan niệm về chân và thiện) của tác giả. F. Ăng-ghen (Fridrich Engels) cũng đã từng nói thế.
Tp. Hồ Chí Minh, 1996.
TRẦN XUÂN AN
(Bài đã đăng trên tuần báo Văn Nghệ TP. HCM.,
số 9/98, 02. 04 – 08. 04. 1998
& trên tạp chí Cửa Việt, số 42 [03. 1998]).
(*) Trường dụ là ẩn dụ xuyên suốt cả tác phẩm, chứ không chỉ ở một câu, một đoạn. Trong các trường hợp này, Kiều, cung nữ, chinh phụ, con hổ được xem như ẩn dụ phát triển thành trường dụ.
______________________
Bài thứ mười một
Phụ lục 2:
CẢM THỨC LỤC BÁT
1
Cảm thức lục bát được thấm đượm, khơi mở và hình thành từ tiếng ru bên vành nôi, từ câu hát điệu hò bên luỹ tre xanh.
Ca dao hầu hết được sáng tác, truyền miệng với thể lục bát và lục bát biến thể. Thi ca dân gian – những vần, những nhịp thơ, cất lên từ ruộng rẫy sông nước – đã được tiếp thụ, phát triển trong dòng “văn học bác học”. Trong đó nổi bật lên là Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc. Truyện thơ Lục Vân Tiên cũng tiếp thụ thể vè (1) dân dã với mục đích thiết thực và muôn đời, ấy là luân lí. Rồi lại đến lượt tiếng thơ bác học trở thành tiếng ru bên vành nôi, thành câu hát điệu hò nuôi dưỡng đất nước và tâm hồn Việt Nam.
Lục bát, song thất lục bát đều khởi nguồn từ ca dao, từ giọt mồ hôi trên dảnh mạ, mái chèo.
2
Trong hàng vạn, hàng triệu câu ca dao, số lượng lục bát được gieo vần trắc (2) chiếm một tỉ lệ nhỏ. Đó là những cặp lục bát có khuynh hướng trở thành tục ngữ hoặc đã là một bài thơ hai câu hoàn chỉnh.
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi.
Và:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Đêm năm canh chầy thức đủ vừa năm.
Nếu câu lục bát vần trắc được phát triển thêm, nó phải trở về vần bằng (2). Đó là một điều hết sức thú vị!
Vần trắc, nhịp chẵn ở thể thơ bốn chữ hoặc thể thơ tám chữ với nhịp 4\4 trở về với lục bát vần bằng cũng tạo một rung cảm thẩm mĩ! Sau này những bài thơ thể tự do trong kháng chiến của Yên Thao (Nhà tôi), Hoàng Cầm (Bên kia sông Đuống), với các đoạn lục bát trữ tình sâu lắng, đã kế thừa từ “Trước bến Văn Lâu…” của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, mà Ưng Bình đã tiếp thu từ “Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá…” của người dân sông nước xứ Huế.
Anh nói với em như dao chém vào đá (4\5)
Như rạ (rựa) chém vào đất (2\3)
Như mật rót vào tai (2\3)
Bây giờ em nỡ nghe ai
Để anh lên xuống Đông Đoài cực chưa!
Bài trên, vần rơi vào nhịp chẵn nhưng câu thơ thì ở nhịp lẻ. Và độc đáo là hai câu kết lại trở về lục bát vần bằng!
Cũng mô thức ấy, các câu thất ngắt nhịp (*) thuần Việt, vần trắc nhịp lẻ, đã tổ hợp với lục bát vần bằng thành một chỉnh thể:
Áo xông hương \ của chàng vắt mắc
Đêm em nằm \ em đắp lấy hơi
Gửi khăn, gửi túi, gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đằng xa.
Song thất lục bát tuyệt hay như thế và các cặp câu thất vần trắc nhịp lẻ thuần Việt thế này thì trong kho tàng ca dao tục ngữ, có nhiều vô số:
Tóc em dài \ em cài hoa lí
Miệng em cười \ hữu ý, anh thương!
Và:
Gái thương chồng \ đương đông buổi chợ
Trai thương vợ \ nắng quái chiều hôm.
Mở rộng khía cạnh vần trắc, nhịp lẻ đó, chỉ nhằm nêu rõ một đặc điểm nổi bật sau đây trong thể lục bát: Vần bằng; mặc dầu không nhiều, vẫn có lục bát vần trắc. Vả chăng, đây là một điều cần suy nghĩ: lục bát biến thể, song thất lục bát vẫn là lục bát, cho dẫu song thất lục bát đã phát triển thành một thể riêng với các luật tắc ổn định và đạt được những thành tựu rực rỡ.
3
Lục bát thuần tuý, dù một bài hai câu chỉ gồm 14 âm tiết (14 chữ) hay cả một trường ca, một tiểu thuyết thơ dài vài ngàn câu, vần gieo chỉ là vần bằng.
Thanh bằng, cả vần lưng, vần chân, xoắn xuýt, quấn quýt, nương níu từ đầu đến cuối bài thơ hay truyện thơ như một dòng chảy liên tục không đứt đoạn. Nếu có trường hợp cần đứt đoạn như một thủ pháp nghệ thuật thì phải dùng điệp từ đảo trang để nối mạch thơ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Đó là trường hợp đặc biệt (cũng có thể lí giải bài trên đã được gieo điệp vần từ “vàng”, chữ thứ hai ở câu lục).
Và cũng cần lưu ý, điệp vần, ngay cả không đổi vần (vần: âm chính + không hoặc có âm cuối) trong nhiều câu liên tiếp cũng làm hạn chế nhạc tính của lục bát. Là dòng chảy, nhưng lục bát không thể độc vận. Độc vận là cái chết của con sông lục bát!
Vần chân và cả vần lưng (cước vận, yêu vận) đều ở thanh bằng, dù thanh bằng không dấu (phù bình thanh) hay mang dấu huyền (trầm bình thanh). Ở câu tám, có cả vần lưng lẫn vần chân, nhưng nhất thiết phải một không dấu và một dấu huyền.
Dù lục bát là thể thơ cách luật ít câu thúc, lại rất uyển chuyển, phóng khoáng, nó vẫn có hai yêu cầu phải tuân thủ: vần bằng và phân biệt thanh trong vần bằng.
Đây là một bài thơ có thể phá vỡ tất cả luật hài thanh cơ bản nhưng vẫn có thể chấp nhận được?
Bây giờ ngoài mình mưa chưa
Ngày vàng se, ngày đang thưa môi cười
Sông người dưng, sông trôi xuôi
Con như lênh đênh theo đời từ lâu!
Khi không, đâu hay nơi đâu
Bay ngang trời, bay bay màu mây sương
Tay ôm đầu thương quê hương
Ơi lều tôn run bên đường mưa bay!
(TXA., bản thử nghiệm)
Tất cả các âm tiết trong bài đều ở thanh bằng!
Về thanh và vần, xin mở một ngoặc đơn ở đây:
Chênh vênh lênh đênh đường đang xa
Bóng tôi đã khuất với quê nhà
Cát chìm cát trắng nắng hoa
Lá về cội cũ xanh oà chồi non.
(TXA., trong tập KBNVB.)
Đó là song thất lục bát thử nghiệm với hai câu thất gieo vần chân thanh bằng!
Nhìn chung, về vần và thanh, cảm thức lục bát thiên về âm hưởng nhẹ nhàng và tinh tế. Điều đó phản ánh khả năng thẩm âm và phối thanh rất tinh của người Việt, thể hiện ở một ngôn ngữ giàu âm thanh, chú trọng đến âm thanh (6 thanh) mà những nhà thơ hôm nay thừa hưởng và nỗ lực nâng cao.
4
Về nhịp. Nhịp lục bát biến hoá rất tự do để biểu đạt cảm xúc nội dung, nhưng nhìn chung, nhịp chẵn (6 // 6 \ 2 hoặc 6 // 4 \ 4; 6 // 2 \ 6; 2 \ 4 // 6 \ 2 …) vẫn chủ đạo trong từng câu. Trong từng bài hay trọn trường ca, trọn tiểu thuyết thơ, nhịp sáu // tám (câu chẵn ngắn // câu chẵn dài) nối liền nhau vẫn là nhịp tổng thể của âm hưởng toàn tác phẩm. Nhịp thơ không những khoan thai, êm đềm, ríu rít, bay bổng… mà còn có thể gay gắt, thắt, nén, tắc, nghẹn, bùng nổ, dồn dập… nhưng vẫn trên nền tảng âm hưởng chủ đạo ấy. Ngỡ như lục bát đơn điệu nhưng kì thực rất phong phú và đa dạng.
Nhịp cũng thể hiện ở cách gieo vần. Ngoài cách gieo bình thường, còn có thể gieo vần lưng ở chữ thứ hai hoặc chữ thứ tư của câu tám (nhịp chẵn):
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời không thấy người thương.
Dù ở câu tám phá thể, vần vẫn phải rơi về chữ kế áp cuối và chữ cuối câu để giữ nhịp chẵn trước khi dứt câu:
Chăn đơn nửa đắp nửa không
Cạn sông lở núi, ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc giấu hay là bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà
Làm cho quên cả đường ra lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời.
Và:
Đất bụt mà ném chim trời
Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!
Cho nên cá chẳng bén câu
Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim […]
Tại sao vần phải là thanh bằng và nhịp phải là nhịp chẵn trong lục bát thuần tuý? Tại sao, trong song thất lục bát, ngay ở hai câu thất, dù gieo vần ở nhịp lẻ, nhưng hai câu thất ấy phải bắt vần vào nhau thành cặp như một điều luật? Và nhạc thơ thắt, nén ở hai câu thất lại duỗi, đằm ở hai câu lục bát; rồi nhạc điệu ấy cứ tuần hoàn một cách linh hoạt suốt cả bài thơ, khúc ngâm?
Có khiên cưỡng chăng, khi nói cảm thức lục bát thiên về âm hưởng nhẹ, đằm, sâu lắng và tinh tế?
Cảm thức ấy còn thể hiện một nhân sinh quan gắn bó, quấn quýt lẫn nhau và không thích những gì không có đôi có cặp. Trên nền tảng ấy, cảm thức lục bát vẫn dung chứa hết mọi cung bậc tình cảm, mọi cường độ cảm xúc, mọi sắc độ tâm trạng… Nhạc điệu lục bát gợi nên cảm giác về sự hài hoà giữa tính cương (độ căng, nặng) với tính nhu (độ giãn, nhẹ) khi tổ hợp với các câu thất thuần Việt? Và lòng nhân hậu cũng thể hiện trong cảm thức này: dù biến thể hay đã trở thành song thất lục bát, thì cuối khổ, cuối bài hoặc thiên, cũng phải là hai câu lục bát; như thể ở đời, dẫu trúc trắc trục trặc đến mấy đi nữa, thì cuối cùng cũng mong đằm thắm, nhẹ nhàng, quyến luyến, gắn bó vào nhau.
5
Khả năng biểu đạt, chuyển tải của lục bát hầu như phong phú, tinh tế vào bậc nhất. Như đã nói, lục bát trường thiên có thể dài tối đa, hàng ngàn câu, thậm chí hàng vạn câu, nếu muốn, tuy nhiên cũng có nhiều bài ca dao hoàn chỉnh chỉ hai câu 14 âm tiết (14 chữ), ngắn hơn hai-ku của Nhật (17 âm tiết). Tiểu thuyết lục bát rất dài nhưng không đơn điệu, và có thể chuyển tải một cốt truyện giàu kịch tính với một dung lượng hiện thực lớn – đan xen vào các tuyến nhân vật và các cảnh đời (Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái…) hoặc mơ mộng, diễm tình (Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự…). Trường ca lục bát như một khúc ngâm trữ tình sâu lắng, da diết (Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính…), như một hùng ca, sử ca thấm đượm cảm xúc (Việt Bắc, Nước non ngàn dặm của Tố Hữu; có thể kể thêm một trường ca song thất lục bát của ông: Ba mươi năm đời ta có Đảng…), như một thiền ca ẩn dật, lánh đục về trong, thanh thoát, bay bổng (Đưa em tìm động hoa vàng của Phạm Thiên Thư…). Thơ lục bát trữ tình, châm biếm thì vô số (từ ca dao: “Đêm đêm ra đứng bờ ao…”; “Lỗ mũi mười tám gánh lông…” đến các tác phẩm hiện đại). Lục bát nhông những có thể biểu đạt, chuyên chở một cách tinh tế, nhuần nhị, cô đọng mọi tâm trạng buồn sầu, thắm thiết, u hoài, dịu ngọt, mà còn rất tuyệt vời với mọi loại thơ, với tất cả phạm trù mĩ học tuỳ theo lí tưởng thẩm mĩ của nhà thơ trước hiện thực đời người, xã hội.
Đêm khuya đèn tắt tối thui
Bếp ai còn lửa cho tôi lùi củ khoai!
Đó là một bài ca dao hai câu tục tĩu lại rất nghệ thuật! Và còn có thể nhận định, trong trường hợp câu ca dao này, tính dung tục bất chấp tính thiện! Đây là một trong những hạn chế của văn học dân gian cần ghi nhận. Hay ta hiểu lệch?
Suốt ngày nằm ngả nằm nghiêng
Không ai nằm sấp trên miềng (mình) cho vui! (**)
Bài lục bát hai câu dân gian này, khó hiểu lệch được nữa!
Câu thơ lục bát cao sang của Nguyễn Du có khi cũng biểu hiện và phản ánh những gì rất ghê tởm nhất ở lầu xanh!
Này con học lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề!
6
Tuy nhiên như đã trình bày, lục bát là tiếng ru, chính xác hơn là mang âm hưởng của nhịp ru dìu dịu, buồn buồn, trầm lắng, đều đều. Là tiếng ru, dù ru con, ru em bằng sử thi:
Chàng về thiếp một theo mây
Con thơ để lại chốn này ai nuôi?
thì vẫn thao thức, chiêm nghiệm; hoặc:
Ru con con ngủ cho lành
Cho mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm (quế? phượng?) cho chồng đi quân.
thì lục bát vẫn mang âm hưởng trầm hùng, đằm sâu.
Lục bát uyển chuyển, mềm mại, linh động, phát xuất từ cốt cách của một dân tộc tự tin và bản lĩnh, hiếu hoà và nhân bản, suốt bốn nghìn năm.
Lục bát gợi âm hưởng miên man, mênh mang, không đứt rời, và tưởng chừng hoà nhập vào bao la cho dù chỉ ở một bài ca dao cực ngắn (thanh bằng).
Đó là triết lí Việt Nam và Phương Đông.
Thâm trầm. Thâm thuý. Nhẹ nhàng. Ung dung. Tự tại.
Từ cái chung Việt Nam, đặc sắc Việt Nam, còn có những phong cách lục bát rất riêng của từng tác giả, góp phần làm phong phú thêm tính cách dân tộc và châu lục.
Vì lục bát là cảm thức, phong thái, cốt cách và điệu hồn Việt Nam, là bản sắc Việt Nam, tôi yêu lục bát. Tôi yêu lục bát từ vô thức, tiềm thức đến ý thức, từ cảm tính của trái tim đến lí tính của tâm linh. Và tôi nghĩ người Việt Nam nào cũng vậy.
Tuy nói đến thơ Việt Nam là nói đến lục bát, nhưng tâm hồn lục bát Việt Nam còn dung nạp và lan toả vào các thể thơ khác, từ thơ Đường Trung Hoa, hai-ku Nhật Bản đến xon-nê châu Âu, khi thể thơ ấy nằm trong tay các nhà thơ Việt Nam. Từ bản lĩnh ca dao (gồm nhiều thể thơ, kể cả thơ tự do dân gian; mà lục bát là chủ yếu), với bản lĩnh lục bát và song thất lục bát bác học (dù hiện nay đang có khuynh hướng “quên lãng” song thất lục bát, mà chỉ nở rộ lục bát!), họ có thể Việt hoá tất cả.
TRẦN XUÂN AN
(Bài đã đăng trên tạp chí Cửa Việt, số 27 [tháng 12. 1996]).
Chép lại trên máy vi tính, xong lúc 10 giờ 09 phút, ngày 02 tháng 11. HB4
(20. 09. G. thân HB4).
(1) Vè, trong cụm từ liệt kê bốn thể văn vần có diễn xướng “thơ, ca, hò, vè”, là một thể chỉ chú trọng đến yếu tố vần điệu. Đó là một hình thức tuyên truyền, kể chuyện, bình luận dễ nhớ, dễ hiểu. Vè xuất hiện nhiều ở miền Bắc và miền Trung.
(2) Vần trắc: vần mang thanh trắc; vần bằng: vần mang thanh bằng.
(*) Trong bài này, tôi sử dụng dấu sổ nghiêng về phía trái (\)như một kí hiệu ngắt nhịp của câu thơ, ca dao. Khác với các bài trước, kí hiệu hai dấu sổ nghiêng về phía phải (//) đã được dùng để ngắt dòng thơ thay vì phải xuống dòng; kí hiệu ngắt dòng (//) đó đi đôi với kí hiệu ngắt nhịp (\)này. (Chú thích của tác giả, khi đưa bài viết vào tập).
(**) Ngô Vưu (giáo viên Trường PTTH. chuyên Quốc Học, Huế) sưu tầm.
MỤC LỤC
1. Đọc thơ Nguyễn Công Bình. 7
2. Đọc thơ Võ Văn Luyến. 14
3. Đọc thơ Nguyễn Tiến Đạt. 23
4. Đọc thơ Phan Văn Quang. 33
5. Đọc thơ Nguyễn Tấn Sĩ. 41
6. Đọc thơ Võ Nguyên. 55
7. Đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ. 62
8. Đọc thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. 77
9. Đọc thơ Hà Linh Chi. 94
10. Phụ lục:
- Một vài yếu tố trong sáng tạo & tiếp-nhận-đồng-sáng-tạo. 106
- Cảm thức lục bát. 108
11. Mục lục. 113
12. Danh mục tác phẩm của tác giả. 114.
Ghi chú để kỉ niệm:
Ngày 18 tháng 11 năm 2004
(07. 10 Giáp thân HB4)
đã gửi trọn tập bản thảo cho
bạn Y THI & anh HỒ THANH THOAN (Tạp chí Cửa Việt),
nhân dịp hai anh vào TP. HCM. công tác.
Một ngày khoảng cuối tháng 11. HB4 (10 Giáp thân HB4),
đã gửi INRASARA trọn tập bản thảo.
Cuối năm Giáp thân (đầu năm 2005),
tập bản thảo cũng được gửi đến PGs. Ts. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG.
Ghi chú theo thủ tục:
N H À X U Ấ T B Ả N V Ă N N G H Ệ T P. H C M.
2 0 0 5
T Á C G I Ả G I Ữ B Ả N Q U Y Ề N
(Bản đã xuất bản có gác lại một vài đoạn ngắn)
Ghi chú về tác giả:
Trần Xuân An
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).
1971, cùng bạn bè chủ trương tập san Đất Vàng, trong giới học sinh ở Tam Kỳ (Quảng Nam – Đà Nẵng), với bút hiệu Huyên Đình (Người Mẹ).
1973, “Tiếng chuông xưa” , bài thơ lãng mạn đầu tiên in trên Tuổi Ngọc.
1975, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm” của báo Văn nghệ Giải phóng.
1991, giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị.
DANH MỤC
TÁC PHẨM, SOẠN PHẨM, BIÊN KHẢO
CỦA TÁC GIẢ
(tính đến 2005)
Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap1.blogspot.com/
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:
13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:
17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
Địa chỉ:
71B Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
(cửa hiệu PHAN HUYÊN)
TP. HCM.
ĐT.: 08.8453955
& 0908 803 908
Email: tranxuanan_vn@yahoo.com
TRUY CẬP THÊM CÁC ĐỊA CHỈ WEBs/ BLOGs
(Xin bấm vào LINKs sau đây):
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/
HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
WIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.
NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(Xin bấm vào các đường LINKs sau đây):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
Trân trọng và cảm ơn.
TXA.