5.12.05

NGẪU HỨNG ĐỌC THƠ (phần I)

TRẦN XUÂN AN
NGẪU HỨNG ĐỌC THƠ



Phê bình thơ


NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HCM.
2005


Tp. HCM., 22 – 23 & 27.08.2003
(25 – 26 & 30.07. Quý mùi HB.3)

Thành phố Hồ Chí Minh
08 giờ sáng
ngày mười một tháng chín
hai không không tư
(hai mươi bảy tháng bảy Giáp thân
công nguyên Hoà Bình năm thứ tư)

Mười tám tháng mười một
Hai không không tư
(mùng bảy tháng mười
Giáp thân HB4)



Lời thưa

Ngẫu hứng đọc thơ sẽ ngẫu hứng với thơ của những người thuộc thế hệ đàn anh, thơ những bạn bè khắp nơi và thơ quê nhà Quảng Trị.
Ngẫu hứng đọc thơ?
Đọc hết lòng, vẫn chỉ dám gọi là ngẫu hứng.
Có điều, trong bạn bè cũng lắm người thơ; thơ bạn bè hay không ít. Đành nhắm mắt bốc thăm, quờ tay vào tủ thơ, kệ sách. Bạn bè trách chi Ngẫu hứng!


TXA.
18. 11. 2004
(07. 10 Giáp thân HB4).

Thêm vài dòng ghi chú về
LỜI THƯA


1. Đây chỉ là tập sách đọc thơ, thậm chí chỉ là đọc thơ một cách ngẫu hứng. Người viết cũng xin được tự giới hạn trong quan hệ thân quen ở quãng thời gian trước khi vào Tp. HCM. sinh sống (1991). Tuy chỉ trong giới hạn đó, tập sách vẫn còn thiếu sót một vài gương mặt thơ ca rất thân tình.
2. Chín bài viết trong tập sách này, tôi đã gửi đến chín người thơ, nhà thơ hoặc thân nhân (nếu người thơ, nhà thơ ấy đã quá cố). Tất cả đều trả lời là rất tán thành trong niềm xúc động về mối đồng cảm hoặc tri âm tri kỉ, duy mỗi một Võ Nguyên là tỏ bày ý kiến có phần khác. Võ Nguyên cho rằng bài viết của tôi về thơ anh có nhiều đoạn hay, nhưng vẫn còn có chỗ cảm nhận hơi chủ quan. Và riêng bài viết về thơ anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi gửi ra Huế, lại gặp dịp chị Lâm Thị Mỹ Dạ đưa anh đi chữa bệnh. Tôi lại gửi qua con gái anh, Hoàng Dạ Thư. Mãi đến ngày 16. 12. HB4, vào lúc 06 giờ 30, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, chị Lâm Thị Mỹ Dạ mới gọi điện thoại đến nhà tôi. Anh Tường bảo: “Viết về mình như thế là rất chính xác”. Liền ngay sau đó, vào lúc 10 giờ, tôi có đến gặp anh chị ở căn hộ CO2 /2 Chung cư 41 bis Điện Biên Phủ (sau chợ Văn Thánh), Bình Thạnh, Tp. HCM.. Anh Tường bảo lần thứ hai: “Không ngờ TXA. viết về mình rất đúng như vậy”.
Tôi vẫn nghĩ, đọc thơ (mạn phép xác định đúng thể loại: phê bình thơ) là một việc hết sức tế nhị, dễ động chạm đến chỗ nhạy cảm nhất của trái tim người thơ, nhà thơ, nên đã trao đổi trước khi gửi đăng báo. Mặc dù theo thông lệ là không nhất thiết phải như thế, và hầu như ai cũng nhất trí với quan niệm thưởng ngoạn, phê bình nghệ thuật là đồng sáng tạo, nhưng dẫu sao, có trao đổi trước vẫn tốt hơn – không những tốt hơn về khía cạnh tế nhị là ít nhiều cũng phải động chạm đến tình cảm riêng tư trong thơ, mà còn tránh được sự sai lệch quá đáng trong cảm thụ. Cũng từ ý nghĩ đó, xin có vài dòng ghi chú cuối lời thưa như vậy.
Trân trọng và đồng cảm.


TXA.
Tp. HCM., 17. XII. HB4
(06. 11. Giáp thân HB4).

___________________________

Bài thứ nhất

ĐỌC THƠ NGUYỄN CÔNG BÌNH

1

Thơ đến với Nguyễn Công Bình từ tuổi học trò trên mảnh đất làng quê chôn nhau cắt rốn, và thơ trong tiếng giảng bài sau luỹ tre xanh ấy, lại dẫn anh đến với lớp văn trường chuyên ở tỉnh lị Nghệ An. Lên đại học, Nguyễn Công Bình cũng vẫn cùng thơ ca một nẻo ngữ văn. Đến lúc tốt nghiệp, ra trường, trừ đi khối lượng thời gian hành chính (không trực tiếp dạy văn), anh thực sự dấn mình vào nghiệp văn chương: làm báo, biên tập ở một nhà xuất bản. Thơ đến với Nguyễn Công Bình rất sớm, nhưng cuộc sống vốn có những ngã rẽ phân trí kì lạ, nên mãi đến năm ba mươi tám tuổi, anh mới trang trọng trình ra giữa đời tập thơ đầu tay: Người gánh bóng mình (1)! Sau đó bốn năm, lần này lại in chung với một nhà thơ khác, có cái tên rất con gái – Vũ Xuân Hương – , để Nụ và quả đến với đời (trong đó, phần thơ riêng của anh là Lời quả (2)). Rồi cũng với một quãng thời gian ấp ủ và sáng tạo ngắn thua thế chút ít, tập thơ thứ ba của Nguyễn Công Bình lại dày dặn hơn, cũng đã được cuộc đời chào đón với cái tên ngỡ rất bảng lảng, xa xăm: “Một người phía chân trời” (3).
Thơ thường được quan niệm mỗi bài là một chỉnh thể. Cho dù có nhà thơ đã cố ý chọn lựa để cho những bài nào đó phải đặt vào tập này chứ không phải tập kia, hoặc có người nuôi ý định sáng tác cả một tập thơ chứ không phải ngẫu hứng với từng bài riêng biệt, nhưng có lẽ phần lớn các nhà thơ, kể cả thi sĩ thiên tài, vốn xem mỗi tập thơ như tập hợp của một chặng đường thơ. Ở trường hợp thứ ba thường thấy ấy, những bài thơ kết thành từng tập, lại là kết quả của sự tương tác dọc một chuỗi tháng ngày giữa nhà thơ với cuộc đời, một cách hết sức tự nhiên nhi nhiên, hầu như không chủ định. Có điều, dẫu sao thơ vẫn là từng bài như riêng mỗi số phận.
Như vậy, phải thế này không, mỗi tập thơ của Nguyễn Công Bình là một chặng đường thơ của anh?
Nhìn ở khía cạnh khác, có nhiều nhà thơ đặt tên cho tập thơ của mình, có chữ với nghĩa hẳn hoi, nhưng thực ra vẫn với ý nghĩa “vô đề”. Và hình như các tên tập thơ của Nguyễn Công Bình, anh đặt theo quan niệm riêng. Có lẽ, đó là trường hợp ở giữa “vô đề” và “hữu đề”, nhưng đều được anh tự đề tựa bằng thơ hay viết bạt bằng thơ để gửi đến người đọc.

2

Người gánh bóng mình là tên khai sinh của tập thơ đầu tay và của bài thơ cuối trong tập. Bài thơ bạt ấy, vào năm 1993, Nguyễn Công Bình viết ngay ở dòng đầu:

Tôi gánh bóng mình đi. Kĩu kịt. Kĩu kịt.
Đòn tre chín dạn hư vô. Bóng tôi khi tròn vo, khi dài ngoằng ngoẵng.

Và cứ thế, “tôi gánh bóng mình đi” là điệp cú cho anh mở rộng tứ thơ, về với hoài niệm tuổi nhỏ có tóc mẹ trắng bến sông, có trăng vàng như trái thị cao vời không hái nổi, với tuổi trẻ có ánh sao thương nhớ phía người con gái nào đã xa. Và “tôi gánh bóng mình đi” còn mở rộng đến một bi kịch lịch sử ở nước Do Thái xa xưa đã được nâng lên thành tôn giáo. Điệp cú ấy mở rộng đến loại tình yêu “nào biết yêu gì? đành yêu hết thảy”! Rồi cứ thế, “tôi gánh bóng mình đi”, “bóng không bao giờ có tuổi” và không biết về đâu, cũng “xin đừng hỏi, về đâu?”, để kết lại, cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Công Bình như thể là khất sĩ hành đạo, “kẻ hành khất giữa chòng chành thiện – ác; kĩu kịt hành trang chiếc bóng mình”.
Bóng không bao giờ có tuổi, Nguyễn Công Bình đinh ninh tận đáy lòng mình như vậy. Từng có ẩn dụ, bóng là linh hồn Phao-xtơ (Faust), nhân vật khát vọng chân lí cõi đời của Gớt (Goethe). Cũng từng có ẩn dụ, bóng là người chồng đi lính thú biền biệt của Nàng Trương, họ Vũ, mỗi đêm hiện về trên phên vách. Ở nghĩa này, bóng là bản thể của “tôi” và ở nghĩa kia, bóng cũng là khách thể của “tôi”…
Nhưng làm sao không ngừng lại để đọc thật kĩ như bị hút hồn vào một bài khác, loại tứ tuyệt mới, có cái tên Vô đề, ngay trong tập thơ đầu tay này:

Có một người gánh bóng mình
Bóng đè gập nặng nề cất bước
Vực thẳm đầu, đại dương chân
Người gánh bóng nhoài lên phía trước.
1992

Bóng ở đây là tâm hồn và tài năng thi sĩ? Bóng là sứ mệnh, thiên chức nhà thơ do chính trái tim mình giao phó? Và nghiệp dĩ là phải gánh, trĩu nặng, khá kềnh càng, chứ đâu phải nhẹ nhàng hoặc nhỏ nhắn để có thể xách, cầm, đội, cõng hay vác! Nhưng trong thực tế, làm gì có bóng vừa ở phía trước mặt, vừa ở phía sau lưng, trên hai quang thúng (hoặc quang thùng) để gánh. Phải chăng một đầu, phía trước mặt kia là hư vô, một đầu khác, phía sau lưng này mới là bóng thật?
Suốt tập thơ gồm hai mươi tám bài, Nguyễn Công Bình đã cho cái tôi trữ tình trong thơ của anh bước đi từ một làng quê Hà Tĩnh, phía xứ bắc Trung bộ nghèo khó nhưng rất đỗi ân tình, với niềm đau bi kịch gia đình chia lìa giữa cha với mạ, để bước vào đời với thiên chức người gánh bóng mình, mặc dù vẫn dạy văn và công tác, ở một tỉnh cực nam miền Trung. Thuận Hải, nơi có những tháp Chàm thâm nghiêm trên đồi và bao cô gái Chàm ở bến sông lấp lánh nụ cười. Thuận Hải, với riêng Nguyễn Công Bình, là nơi có vài cuộc rượu với người bày quán sách ở đầu sân ga, nơi có một người bạn dạy học ở vùng Tánh Linh, vốn là tị địa của bao gia đình nghĩa sĩ Nam Kì thời Pháp chiếm, nơi có người bạn khác sống thu mình như cây tùng trong chậu kiểng… Bình Thuận, nơi Nguyễn Công Bình đã có mười lăm năm sống, cộng với hai mươi mốt năm trước đó ở nguyên quán Nghệ – Tĩnh, tuy vậy, thật sự anh chỉ chọn lại cho mình những bài thơ anh viết sau khi vào hẳn ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo cách nói của anh, đó là “những câu thơ muộn mằn…”. Thơ Nguyễn Công Bình muộn mằn nhưng đậm đà như thơ và truyện ngắn Võ Nguyên, Đinh Đình Chiến, những người cũng gánh bóng mình ở Bình Thuận.

Mười lăm năm ngụp lặn công danh
Mình tự vả vào mồm chảy máu
Uốn éo dài lưng tập tành áo mão
Hồn lang thang tìm sóng Mịch La.

Mịch La, một dòng sông Trung Hoa, chốn trầm mình của Khuất Nguyên, nơi Nguyễn Du của Hà Tĩnh quê anh, trong một lần đi sứ, đã đau xót cám cảnh về bao con thuồng luồng nhai thịt người ngọt xớt, kể cả xương thịt của tác giả Ly Tao.
Đó là lời tự phê, phản tỉnh thành khẩn, quyết liệt của một bản lĩnh mạnh mẽ. Đó là cảm xúc cực độ, lúc cái tôi trữ tình trong thơ anh, cái bóng của chính anh, không phải méo mó như ở “Nhà cười” (tên bài thơ đầu ở tập đầu tay), mà đang nghiêm trang, thống thiết tự quyết định ngã rẽ cho đời mình. Tâm trạng ấy có nguyên nhân trong công việc hành chính. Phút giây ấy xảy ra khi một nguyên cớ ập tới: Nguyễn Công Bình đọc được dòng tin về người bạn khác nữa, đã rời nhiệm sở để ra Hà Nội học trường viết văn Nguyễn Du:

Mười lăm năm dòng tin gặp bạn
Bỗng dưng đêm sởn da gà
Văn chương nghiệp chướng nhập qua đời mình.

Nguyễn Công Bình tự đốn ngộ, với loé sáng xuất thần giúp anh tỉnh táo, thấu suốt, và tự chấp nhận gánh vác thiên chức làm một nhà thơ của cuộc đời. Sau mười lăm năm phải làm hành chính sự vụ, loại hình công tác mà theo tạng chất thi sĩ, anh cho là “uốn éo dài lưng tập tành áo mão”, Nguyễn Công Bình đã thật sự tìm thấy bản chất đích thực của anh, vốn hình thành từ lòng mẹ, từ tuổi học trò trường làng cho đến khi anh rời khoa ngữ văn dưới mái trường đại học? Hay anh viết thay một ai đó? Nhưng dẫu viết về ai cũng thể hiện cái tâm của chính nhà thơ Nguyễn Công Bình.
Nhưng, để hết mình cho thơ, từ đó, Nguyễn Công Bình vào thành phố Hồ Chí Minh làm báo.

3

Phần thơ Lời quả của anh trong tập tứ tuyệt in chung với Vũ Xuân Hương này, lại hầu như rất ít chất đời, chất thông tấn. Có lẽ một phần bởi thể thơ bốn câu phải hàm súc, nhưng đúng hơn, anh ngập vào chất đời, chất thông tấn đến nỗi muốn thoát ra khỏi chúng bằng thơ, để phiêu cảm mênh mang hơn, trầm tư sâu xa hơn, và do đó, chừng như lại xa cách thế thái nhân tình với bao nỗi niềm hiện thực. Đôi khi, thơ anh ngã tựa vào chất Thiền tông, “phùng Phật sát Phật”, để “kiến tánh thành Phật”, tự khai sáng nẻo đường “xông trời thẳm”, với nội lực toả ra từ “một tiếng kêu dài khiến lạnh cả bầu trời” trong thơ Lý – Trần. Phật (Budha) với anh, đúng như kinh điển Thiền tông, là người giác ngộ bản chất cuộc đời.
Khác với thơ Vũ Xuân Hương, tứ tuyệt phá cách, thoát sự gò bó của khuôn âm thước chữ nghiêm ngặt, tứ tuyệt của Nguyễn Công Bình thiên về niêm luật với nét đẹp cổ điển, kể cả tứ tuyệt ngũ ngôn, tam ngôn và tứ tuyệt lục bát, tuy câu chữ, hình ảnh bay bướm, gần gũi với đời thực hiện tại.
Không thể điểm hết tất cả những bài thuộc phần thơ Nguyễn Công Bình trong tập, nên Quả trở thành một nét nhấn đối với người cầm trên tay tập thơ này. Quả không phải tiêu biểu nhất cho kĩ xảo niêm luật của Nguyễn Công Bình, nhất là cho tài thơ tứ tuyệt của anh về cấu tứ, dùng từ, và sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ…

Về quả làm sao ngược lại hoa?
Thời gian ủ chín tháng năm xa
Đắng chát ngọt dần cho kẻ hái
Chắt hạt thành cây ai nhớ ra?

Nhưng cho dù Quả cố tình thoát niêm một cách tài tử (vốn phải là “ngọt dần đắng chát cho người hái”), Quả vẫn chứa đựng một ý tưởng đã thành niềm thơ trăn trở trong anh.
Ý tưởng ấy không phải là một phát hiện, một khám phá mới, bởi có gì gần với loài người hơn là hoa trái, nhất là trái ngọt mỗi mùa hạ và mọi người đều có thể thường dùng hằng ngày; đồng thời cũng không xa lạ gì ý thức gieo hạt thành cây, để cây ra hoa và lại cho trái. Nó gợi đến nòi giống truyền đời, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia. Ở cấp độ khái quát siêu hình, từ cổ đại, người ta đã nói đến luân hồi với chủng tử, công quả, nghiệp quả, quả báo, đặc biệt là hai chữ nhân quả. Nhân quả (nguyên nhân – kết quả) là cả một phạm trù triết học. Nhưng câu thứ nhất của bài thơ vẫn cứ là một niềm tiếc nuối vô vọng đến xót xa, còn câu khép lại bài tứ tuyệt vẫn là một lời tự vấn và nhắc nhở ai đó quanh mình một cách thành khẩn. Tuy vậy, có lẽ đúng hơn, ấy chỉ là Lời [của] quả, thiết tha và dịu ngọt, bởi như mọi nhà thơ khác, Nguyễn Công Bình nào dám lên mặt dạy dỗ ai. Ngay đại từ ai trong tiếng Việt cũng đã quá tế nhị rồi.
Lời quả đến ba mươi bài, và không chỉ duy nhất một nỗi niềm như thế. Lời quả tất nhiên phong phú hơn nhiều.
Lời quả gói hờ một chuỗi thời gian trên đường thơ anh.
Nguyễn Công Bình lại trở thành biên tập viên cho Chi nhánh Nhà Xuất bản Thanh Niên, và vẫn hoài vọng Một người phía chân trời.

4

Với tập thơ thứ ba này, Một người phía chân trời, nhan đề và tranh bìa, rõ ràng đã làm tỏ ý cho nhau (nếu không có sự bất đắc dĩ nào). Tranh vẽ bóng trắng một người nữ trẻ tuổi, mặc áo dài, thả tóc dài bay trong gió, nhìn về phía mặt trời lặn. Bóng dáng ấy in lên nền trời cuồn cuộn đầy những mây trắng.
Hơn thế nữa, Nguyễn Công Bình còn viết thủ bút bốn câu thơ ngay phía dưới tranh bìa bốn (tranh bìa một cũng là tranh bìa bốn, tuy kích cỡ không bằng nhau):

Phía hư ảo ráng mây chiều rực cháy
Lấp loá bạc vàng hay lả tả tàn tro?

Bạc vàng hay tàn tro? Để cảm thông niềm thơ, cần phải đọc những bài thơ trong tập, nhất là bài gần như khúc ca chủ đạo của tác giả: “Không đề phía chân trời”.
Thế là lại một lần nữa, Nguyễn Công Bình vừa “vô đề”, vừa “hữu đề” như ở tập đầu tay, nhưng theo một cách khác!
“Không đề phía chân trời” là một bài thơ văn xuôi. Trong đó, anh viết: “Phía chân trời một người đi trong lòng giấu sóng đại dương”. Hoá ra, nhìn về phía chân trời trong tứ thơ của mình, trước tiên, Nguyễn Công Bình thấy “chiều ngõ quê mềm chảy tóc em hương”. Nhìn tiếp phía chân trời, bỗng thấy trái đất chỉ là quả bóng đá, kiếp người chỉ là ánh sao băng trong chớp mắt, và lại băn khoăn về mọi “ganh đua, lường gạt, bạo tàn”! Phía chân trời còn là màn hình vô tuyến, trên đó hiện lên một “châu Phi đói khát”, “sa mạc trắng băng tang thắt ngang trái đất; trên những nấm mồ cát nhoá vụn bánh mì nhân ái vật vờ bay”. Phía chân trời, đô-la-bom giết người và đô-la-thuốc cứu người chênh lệch nhau triệu lần, nhân quyền sơn phết cho cái ác, “tiếng thét đau thương va tiếng cốc ăn mừng”. Phía chân trời, ở nơi đâu đó, “máu nhân dân ngập trận cờ lừa”, “chim di trú trời xa còn nhớ cội tìm về”. Và cuối cùng với dấu chấm lửng, “thiện và ác vẫn song hành giữa yêu và ghét; trái đất vẫn trần xoay trong tro bụi ngọc ngà; vô định quá…”, phía chân trời trong thơ anh!
Phía chân trời trong thơ dữ dội hơn trong bức tranh bìa nhiều lắm. Và biết đâu, ngầm chứa sự dữ dội như trong truyện ngắn An-đec-xen (Andersen), cái bóng y hệt người hầu da đen châu Phi nô lệ, một hôm nào lật ngược thế cờ lịch sử – thân phận trên thế giới: người da đen làm chủ, cái bóng da trắng phải vật vờ theo sau gót như một gã bồi hạ đẳng. Có điều, không phải là phép hoán đổi vị trí, quyền lợi hưởng thụ tầm thường, nhỏ nhen, mà phải bằng cách mạng, nhân nghĩa và bình đẳng.
Nguyễn Công Bình ở chặng thứ ba đường thơ của anh, anh vẫn tiếp tục gánh bóng mình, có điều bây giờ gần như tất cả đã bị hư vô hoá, bởi hệ giá trị đã bị đánh tráo (thật – giả; xấu – tốt đều đồng nhất). Anh “Tự bạch”:

Chòng chành trĩu gánh hư vô
Dở khôn – dở dại; bên khô – bên lầy
[…]
Mặc hoàng hôn, kệ bình minh
Ngày nương bóng phố, đêm vin bóng mình

Cái bóng của Phao-xtơ, của Nàng Trương, – hiểu như biểu tượng, làø tâm hồn, là hi vọng của anh –, cái bóng ấy chỉ trở về được (chỉ tìm lại được), khi anh còn lại là chính mình trong đêm với ngọn đèn khuya khoắt. Có điều, năm nào anh còn ngã bóng cho người vợ hiền râm mát, nay anh phải nương vào “bóng phố” để tồn tại bơ thờ, lơ đãng, “ấm ớ”, “vu vơ”…
Mặc dù Một người phía chân trời là tập thơ nghiêng về đời sống phố phường với những cảm xúc hiện tại, nhưng hoài niệm ngọt ngào, ám ảnh thảng thốt vẫn thi thoảng hiện về, dậy lên. Hơn cả thảng thốt, đây là ám ảnh về một sự thật khủng khiếp, khủng khiếp vì oan khốc của những đồng chí kháng chiến trung kiên, khủng khiếp vì sự tha hoá của cô bé gái tuổi trăng rằm do khái niệm “giai cấp”, “nguồn gốc xuất thân” bị đóng khuôn một cách “siêu hình”, thiếu biện chứng, phi hiện thực:

Đường đi tới nửa chừng cơn xoáy lốc
Liềm, búa, trống, chiêng… lửa bốc rừng người
Cô đội tuổi rằm chanh chua giọng thét
Máu đồng chí trung kiên phun dấu hỏi lên trời
Ngàn tiếng rủa, một cõi lòng tan nát
Mẹ quỳ khóc bóng cha thất thểu tù đày…
Ờ chuyện cũ vết thương giờ kín rịn
Gội lỗi lầm, lịch sử thắm ngời son
Chuyện người vô vi, chuyện mình thiền định
Cha bạt núi, dựng nhà, cắn trắt, nuôi con…

Thời tuổi nhỏ của Nguyễn Công Bình và của người vợ đồng hương có một ám ảnh về nỗi đau thương, oan khuất. Theo lời anh kể, cho dù đã thuộc về quá khứ xa xăm, nhưng hình ảnh cô trưởng đội đấu tố “chanh chua giọng thét”, người cha vợ Phan Trường Lưu phải chịu tù đày, đồng chí kháng chiến của ông bị xử bắn bởi thành phần xuất thân, trong thời kì cải cách ruộng đất, vẫn đôi khi lại trở về trong trí nhớ anh, nhưng đã được phủ lên một màu sắc “vô vi”, “thiền định”, và hơn thế nữa, “gội lỗi lầm, lịch sử thắm ngời son”. Có lẽ một chút diễn giải như thế là quá thừa, nhưng thật ra rất cần thiết trong cảm thụ. Hình như người đọc không thể lướt qua, bởi suốt cả tập thơ, duy nỗi ám ảnh thảng thốt ấy đã đậm lên chất bi kịch xã hội, ở bài thơ đó – “Có một chữ nhân” – , trong khi ở các bài thơ khác, những cảm xúc khác, dung lượng phản ánh khác, chỉ đằm sâu hoặc nhẹ nhàng, thoang thoảng.
So với tập đầu tay, hai tập sau nhiều chất thị thành hơn. Tâm hồn Nguyễn Công Bình đã thay đổi khá rõ nét, và có thể nói, ngay cả hoài niệm quê nhà, nơi thường trú cũ, ngỡ không bao giờ thay đổi trong kí ức, cũng hiện về trong anh với màu sắc, ánh sáng khác. Chẳng hạn, mười lăm năm Phan Thiết – Bình Thuận lại về một lần nữa trong thơ anh:

Níu giùm chớp bạc thời gian
Mười lăm năm ấy gian nan phận người
Tha hương chao chác nỗi đời
Vịn thơ mà bước chơi vơi tháng ngày
Nợ lòng Phan Thiết thơ vay
Gỡ ra lại thắt, đau hoài trăm năm!

Đặc biệt, ở tập thứ ba, từ câu chữ cho đến cảm xúc của nàng thơ trong thơ Nguyễn Công Bình đã ngày càng bay bướm, phóng túng, ảo thuật hơn (làm xiếc ngôn từ nhiều hơn), nhưng vẫn tạo cho người đọc cảm giác tiêng tiếc thế nào đó, như thể Nguyễn Bính năm nào đã viết về một cô gái nông thôn hồn hậu, chân thành, một hôm ra phố về, chợt nhận thấy: “hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều”! Biết làm thế nào được, một khi làng mạc, nông thôn bây giờ cũng đang thành thị hoá.
Vẫn hi vọng ở tập thơ tiếp, nàng thơ (một hình ảnh ước lệ!) của Nguyễn Công Bình lại nền nã một vẻ đẹp thị thành.
Nguyễn Công Bình vẫn tự nhận mình là một người đa mang, đa tình. Anh yêu thương và căm giận, âu lo và bức xúc, luyến tiếc và bực bội trước bao loài cỏ cây hoa lá, nhiều dạng người, lắm cảnh huống. Anh không phải là một nhà thơ chuyên nhất về một đối tượng thẩm mĩ. Rất khó để gò khuôn thơ anh vào một vài đề tài với tần số cảm xúc nhất định. Rõ ràng, mỗi tập thơ của Nguyễn Công Bình chỉ là một chặng đường thơ của anh.
Tất nhiên, dẫu thế, vẫn có thể nhận ra những nét chủ đạo trong thơ Nguyễn Công Bình. Tuy nhiên, phải đợi đến lúc nào rõ nét hơn.

5

Cuối bài viết, tôi muốn ghi lại một chút cảm xúc có thể gọi là kỉ niệm thơ ca với một bài thơ như một chỉnh thể riêng biệt trong thơ anh.
Cuộc sống vẫn luôn có những tình cờ đáng nhớ, nhất là với bao người làm thơ luôn luôn chắt chiu hoài niệm. Một trong những tình cờ ấy của tôi, là gặp lại Nguyễn Công Bình sau lần gặp đầu tiên, cách đây hai mươi sáu năm (nếu không kể giữa chuỗi thời gian đằng đẵng đó, có một lần thoáng vội). Thuở ấy, 1977, chúng tôi còn là sinh viên năm thứ tư đại học sư phạm, anh học ở Vinh, tôi học ở Huế. Hai khối lớp kết nghĩa của hai trường kết nghĩa càng thắm thiết, khi lớp chúng tôi có một chuyến ra Vinh tham quan. Bấy giờ, lớp ngữ văn của tôi đã có hai cô sinh viên ở Vinh chuyển trường vào Huế học. Hơn hai mươi sáu năm sau, lúc này, khi đọc thơ anh, quả thật, tôi ngạc nhiên, cứ ngỡ đoá hoa hồng màu xanh mảnh mai, bé nhỏ, gầy guộc thuở bấy giờ là người yêu của Nguyễn Công Bình! Có phải vậy không? Sao mãi đến bây giờ anh còn bâng khuâng hỏi đoá bích hường ấy, như một chàng trai trong ca dao?

Bậu còn nhớ Huế chiều mô
Ta đi tìm bậu tím bờ sông Hương?
Tình chi hương ngát ngày thường
Trắng trong bậu hái bông Hường, tặng ai...

Riêng về thơ, thoáng “hương đồng cỏ nội” ấy thật đáng yêu biết bao.
Có điều, tôi và mọi người ít nhiều quen biết anh, đến lúc này vẫn hiểu chắc chắn đoá hường xanh và Bình chỉ là bạn thân, trong veo tình nghĩa. Nhưng tại sao đọc bài thơ kia, không một ai không ngộ nhận, cứ ngỡ là họ đã yêu nhau, nhưng rồi phải chia tay, và đã chia tay bao nhiêu năm vẫn quan tâm đến đời nhau một cách rất chân tình, trong sáng. Nhưng cũng như nhà thơ Nguyễn Công Bình, tôi cũng tự hỏi, phải chăng đoá bích hường và chàng trai trong ca dao kia, đã được thi ca nâng lên đến mức trở thành hình tượng nghệ thuật, để không còn là đoá hường, là Bình trong đời thực? Phải chăng đây là trường hợp nhà thơ bị chính thơ ca hớp hồn, lôi kéo, dẫn dụ một cách vô thức? Tôi muốn tập Kiều để minh oan hộ Nguyễn Công Bình và đoá hường xanh:

“Thơ đưa lối, nhạc dẫn đường
Lại tìm những nẻo bất thường, đôi khi”.

Đây chỉ là trường hợp “đôi khi”, vô thức ngoại tình trong thơ và chỉ trong thơ, mà ngay cả tác giả cũng không ngờ!
Có điều, tôi vẫn muốn vừa tinh nghịch, vừa lãng mạn cảm nhận theo hướng ngộ nhận kia: Bình đã hoá thân thành chàng trai trong ca dao, còn cô bạn (nay là tiến sĩ) đã hoá thân thành đoá hồng xanh, và quả thật, giữa họ đã từng có một tình yêu thiết tha, trinh bạch. Lúc này, biết rằng họ không còn trẻ nữa, tôi lại hình dung: Chàng trai trong ca dao và đoá hường xanh ấy hẳn mong sao độ chênh, quãng cách giữa nỗi niềm thơ ca (chút ngoại tình “hồn bướm mơ tiên”) với đời thực bình thường (phải giữ đúng tình bạn đơn thuần), mãi là niềm khắc khoải khôn nguôi, thôi thúc phải vươn lên mãi, giữ mãi sự đúng mức, cho dù phải qua thác, qua ghềnh, để hướng tới chân trời hừng đông, trong thơ và trong đời.
Tuy nhiên, tôi vẫn biết, đó chưa phải là niềm khắc khoải cao quý hơn, tuy vẫn khôn nguôi, vẫn vốn dĩ và phổ quát, khi sống trong độ chênh, quãng cách giữa lí tưởng thơ cao quý với đời thực bình thường, thậm chí tầm thường. Niềm khắc khoải chân chính ấy bảo chúng ta luôn biết tự vấn, và bảo người gánh bóng mình hết vượt lên đỉnh dốc này lại phải nỗ lực tiếp tục vượt lên đỉnh núi khác, trên hành trình sống và hành trình thơ.

Tp. HCM., 22 – 23 & 27.08.2003
(25 – 26 & 30.07. Quý mùi HB.3)
TRẦN XUÂN AN

(1) Người gánh bóng mình, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 1994.
(2) Nụ và quả (in chung), Nxb. Thanh Niên, 1998.
(3) Một người phía chân trời, Nxb. Thanh Niên, 2001.

Đã gửi:

1.Nguyễn Công Bình (ngay sau khi viết xong, 2003)
2. Võ Văn Luyến (12. 9. 2004)
3. Inrasara (12. 9. 2004)


______________________

Bài thứ hai

ĐỌC THƠ VÕ VĂN LUYẾN

1

Tôi cứ mãi bâng khuâng khi tìm đọc lại tập thơ đầu tay của Võ Văn Luyến. Điều đầu tiên tôi trực nhận ra cách đây đã hơn một năm, Võ Văn Luyến cũng như một số người thơ khác, hoàn toàn không phải ngẫu hứng khi chọn tên cho tập thơ đầu lòng, tập thơ gồm gần bảy mươi bài thơ anh đã cưu mang, trải lòng với bạn bè, người đọc trên nhiều trang báo suốt hai mươi năm qua: Trầm hương của gió (1). Trực nhận ấy đến lúc này, khi muốn chia sẻ với anh qua những dòng chữ của một bài viết, tôi không thể không nhớ lại dăm câu thơ, đoạn thơ trong tập.
Ở bài thơ Trầm hương, Võ Văn Luyến thể hiện cảm xúc của tâm trạng thường thấy nơi sâu thẳm của trái tim nhiều người, khi về lại một làng quê, làng quê ấy lại chính là mảnh đất đã cho anh tình yêu và chứng kiến trong anh niềm đau rạn vỡ, hối tiếc. Sau rất nhiều năm tháng, người thơ cứ mải mê tìm về kỉ niệm.

Quê kiểng Hoàng Anh chạm ngõ
Chút gì như thể mùa thu
Hối tiếc một thời rạn vỡ
Tình đây, người đã xa mù

Tìm giữa vườn xanh mắt thẳm
Hỏi hoa mấy độ đơm bông
Hỏi tình ngây thơ vụng dại
Buồn nghe lặng tiếng trầu không

Ngẩn ngơ anh về thả gió
Trầm hương kí ức ngút trời
Nỗi niềm mang mang hoa cỏ
Lòng chiều sương khói xa xôi.

Với ý định chỉ trích dẫn đôi ba dòng, nhưng bài thơ Trầm hương của Võ Văn Luyến chỉ vỏn vẹn 12 câu, lại rất khó lòng gạn bớt. Điều ngăn tôi đừng gạn bớt, đó chính là hình ảnh “anh về thả gió / trầm hương kí ức ngút trời…” ở đoạn kết của bài thơ. Không phải là hoài niệm, hối tiếc về những gì trót đã trôi qua nhưng hiện tại vẫn còn có cơ may lại gắn bó, chuộc lại lỗi lầm xưa! Quả thật, giữa đời này có bao niềm đau, ân hận trong kí ức của trái tim vẫn chỉ là niềm đau, ân hận, cho dù cơ may còn đó. Ở Trầm hương, chừng như người thơ về thắp một nén hương trên nấm mộ người yêu dấu xưa. Vĩnh viễn không còn cơ may nào nữa!
Tuy thế, tôi vẫn tìm một cách tiếp cận tứ thơ trong Trầm hương khác hẳn như cảm nhận ban đầu. Tự nhủ với chính mình, ai bảo gió trầm hương kia không phải là thoang thoảng hay ngút trời trầm hương ngày Tết? Chiều ba mươi, đêm giao thừa và những ngày nguyên đán không gian quanh ta chẳng ngan ngát, bảng lảng khói trầm hương là gì. Và cũng tự nhủ, ai bảo mùa thu thực tại không là mùa xuân kỉ niệm trong kí ức? Cũng đâu hẳn tiết trời thực tại lúc người thơ trở về chắc hẳn là mùa thu! Rõ ràng là “chút gì như thể mùa thu”, như thể mùa thu chứ không phải mùa thu! Và như thế, cõi xa mù nào đó trong bài Trầm hương cũng chỉ là một phố phường, làng quê nào xa lắc đó thôi. Cõi xa mù ấy không phải là nơi mà lòng người chỉ có thể giao cảm bằng những làn khói trầm hương khấn niệm.
Với cách tiếp cận thứ hai này, tôi cảm thấy ấm lòng hơn; và hình như nhờ Trầm hương của gió, tôi nhớ về trầm hương nguyên đán tháng giêng, cho dù mãi mãi chỉ còn trong kỉ niệm về người yêu dấu xưa.
Thơ Võ Văn Luyến có những bài nhẹ nhàng như có như không mà gợi mở nhiều chiều, lại thấm thía như thế. Anh không cầu kì, lập dị trong cảm xúc thơ. Thơ anh cứ từ tốn hiện lên trên trang giấy với những gì rất gần gũi, hầu như ai cũng một lần đã trải qua. Nhưng thơ Võ Văn Luyến cũng níu gọi người đọc. Tôi không thể ngừng lại cảm xúc có chút gì như thể khám phá thế giới thơ trong anh.
Lại gặp một lần nữa hương và trầm ở bài Thơ vui viết lúc buồn. Thật ra, niềm vui được hồi tưởng qua tâm trạng không những không vui, mà chừng như cũng không phải buồn bã. Nỗi buồn xen lẫn niềm hi vọng chăng? Cũng không phải là niềm hi vọng mãnh liệt.

Anh mường tượng lúc trở về
Chút đồng nội còn ngậm hương sắc áo
Trời đầy mưa, lòng mong tạnh ráo
Dấu môi xưa toả sáng tình trầm

Một đoạn thơ tươi sáng niềm hi vọng về tiếng gọi mùa thu dịu nhẹ dưới vòm trời không ướt sũng mưa! Hương không còn là mùi trầm, rõ ràng là hương đồng nội, nhưng môi người yêu dấu xưa vẫn phải lưu dấu xưa để toả sáng tình yêu thơm ngát mùi trầm. Sao vẫn là mùa thu, vẫn mùi trầm trong hương đồng nội? Tâm hồn Võ Văn Luyến mãi mãi nguyên đán với chút tình đầu chăng, cho dù tuổi chớm thu?
Hay tình trầm là khối tình cô đặc như trái tim nghệ sĩ Trương Chi trong cổ tích, nhưng không phải là khối tình trầm tuyệt vọng mà ngát thơm hạnh phúc trong hi vọng?
Thơ Võ Văn Luyến biết dừng lại để mời gọi đồng thời mở ra những nẻo đường của tưởng tượng thơ.
Và lại hương cùng trầm, nhưng ở bài Nắng trong mưa, vốn được đặt trước bài trên, là một từ ghép với một ngữ nghĩa nhất định. Lần này, không thể không gạn đi dăm câu có hình ảnh với ngôn từ sáo cũ, để còn lại một trong hai đoạn thơ đẹp nhất bài:

Buổi chiều ru tôi
Bằng xa xôi trầm hương của gió
Cơn gió ướt sũng thị thành
Làm sao hong khô tháng ngày cỏ mật

Đó là cuối chiều ở một ngõ phố, hẻm phường nào đó, nắng úa rơi theo mưa từng giọt, lóng lánh. Người thơ vẫn lắng nghe và đón nhận trầm hương của gió một thuở xa xôi, từ làng quê xa xôi. Lòng người thơ vẫn là kỉ niệm tháng ngày cỏ mật đồng nội, mà thị thành hoá ra là lực cản, một lực cản sũng nước!
Nếu tập thơ khép lại với hình ảnh trong cụm từ nguyên vẹn này: “Trầm hương của gió”, chúng ta cũng có thể hình dung và cảm nhận được tâm hồn và thế giới thơ của Võ Văn Luyến. Tuy vậy, tôi thấy cần phải chia sẻ với anh nhiều hơn, dẫu biết rằng, cho dù anh viết về cha mẹ, về anh chị, về đứa em út non yểu, về vợï con, và về Huế, Hà Nội hay về Mỹ Thuỷ của Quảng Trị quê nhà, cho dù anh viết về bạn bè, hay về Rembrandt, về O’Henry, hình như tâm hồn Võ Văn Luyến vẫn chỉ có thể thể hiện ra trang giấy với mùi trầm hương của gió.
Trầm hương của gió, mùi của tâm linh giao cảm với ai đó không còn nữa trên đời?
Trầm hương của gió, mùi của tâm linh giao cảm với nghìn xưa mênh mang trong dăm ngày Tết nguyên đán rực rỡ?
Trầm hương của gió không chỉ thế.

2

Tôi ngần ngại khi bày tỏ chút liên tưởng có vẻ xác thịt, phù hoa này: Trầm hương của gió, mùi hương liệu gợi lên niềm tinh khiết trong giọt nước hoa, thứ nước hoa vốn đã làm giảm bớt tính xa hoa, kiêu kì, kích thích? Mùi hương liệu trầm trong viên xà phòng chỉ để làm ngát thơm da thịt thiêng liêng?
Thơ viết về tình yêu thời trai trẻ của Võ Văn Luyến không ít, nhưng anh rất ít viết về nụ hôn nồng cháy, cảm giác rạo rực của phút tay chạm vào tay, của ánh mắt lướt vội qua vòm ngực thanh nữ tròn đầy, xinh đẹp đến bàng hoàng, ngây ngất. Đúng hơn, Võ Văn Luyến có cảm nhận, nhưng cảm nhận tình yêu với xác thịt trầm hương thanh khiết.
Mỹ Thuỷ, một vùng biển quê nhà Quảng Trị, với Võ Văn Luyến:

Cái tên đẹp như nàng tiên cá / Trong truyện cổ tích / Đêm đêm / Nàng hiện ra trên thảm cát / Lặng nghe con sóng xô bờ / Lặng nhìn những vì sao đổi chỗ / Những nụ hôn xẹt thành vệt sáng / Mông lung thiên hà khát vọng / Bỗng yêu hơn mặt đất con người / Mỹ Thủy… // … Những chiếc phong cầm xanh / Tấu khúc hoan ca ngày họp mặt / Cầm tay nàng tiên cá rót mật / Vào bài thơ Mỹ Thuỷ yên lành.

Người yêu dấu hoá ra chỉ là nàng tiên cá cổ tích! Nụ hôn không phải nồng nàn, đắm đuối, mà cuống quýt, chỉ dám vội vàng như vì sao băng bay xẹt ngang trời, cho dù niềm khao khát là cả thiên hà. Cái cầm tay không rạo rực, nóng bừng, mà chỉ là nâng lên bàn tay người yêu dấu để rót mật vào thơ cho một vùng quê biển yên lành, sau rất nhiều tháng năm nơi ấy máu đổ, súng bom gào thét.
Và một cửa biển khác, trên đất Thừa Thiên – Huế: Thuận An.

Biển Thuận An đầy gió
Thổi vơi dáng toạ Thiền
Vầng trăng trong lồng ngực
Vuốt đường cong thiên nhiên

Biển vô ưu quá thể
Nụ hôn xẹt ngang trời
Miên man mai xa Huế
Cổ tích lùa vào tôi.

Tôi cam đoan rằng, Mỹ Thuỷ và Thuận An trong Võ Văn Luyến là một, nhưng với Thuận An, người thơ trong anh táo bạo hơn. Người thơ thấy gió Thuận An mặn mà đến mức cõi đời bị thổi vơi mất những dáng người toạ thiền với quyết tâm đạt đến chiùnh niệm, xua tan nhục dục. Tuy vậy, với người thơ, vầng trăng không phải trên lồng ngực, mà trong lồng ngực. Trước khi “vuốt đường cong thiên nhiên”, trái tim phải thật sự toả sáng như vầng trăng. Và vì thế, biển dạt dào như muôn đời vẫn dạt dào vỗ sóng, nhưng vẫn vô ưu trước những nụ hôn phớt nhanh trên đôi môi nồng thơm, trên gò má ngan ngát của người yêu dấu.
Đó là trầm hương của gió, nụ hôn của gió, vuốt ve của gió, trong thơ Võ Văn Luyến.
Võ Văn Luyến còn viết Tình ca mùa đông. Trong bài thơ lục bát này, vẫn là vầng trăng tỏ và nụ hôn nồng, nhưng không còn là ẩn dụ kín đáo:

Biết rằng tôi đã mất em
Sao tôi / Vẫn sống cái đêm bắt đầu
Cái đêm trăng tỏ chân cầu
Nụ hôn cháy đến mai sau không tàn
Cái đêm / Những tưởng đa mang
Với thời gian / Với không gian / Cồn cào
Cái đêm / Lặng lẽ nhìn nhau
Cao xanh chấp chới nghìn câu nên vần
Thôi em / Từ tạ ngày xuân
Hoa mơ rã cánh phù dung sớm chiều…
… Rồi ra / Cũng một lần thôi
Nồng nàn như rượu / Say rồi lại quên…

Lục bát là thể thơ đầy thách thức. Tuyệt vời lục bát, nhưng khó khăn nhất vẫn là lục bát. Võ Văn Luyến bị vần lục bát níu vào khuôn sáo ở một đôi câu, nhưng tình thơ anh rất thật, thật trong một lần trót lỡ môi nồng, trót lỡ mắt ngọt, nhưng cũng thật trong ý thức trách nhiệm. Và anh càng thật khi thú nhận, hoá ra đó chỉ là nụ hôn của tình yêu ngỡ bền lâu, chung thuỷ, ngờ đâu như đóa hoa phù dung chóng úa!
Lần này, Võ Văn Luyến không còn nói đến trầm hương, anh nói đến rượu. Không phải rượu suông. Đúng là rượu nồng nàn. Ai đó say rồi quên, còn anh mãi nhớ. Nỗi nhớ trong anh cũng là trầm hương, làm thăng hoa một lần phạm tục và một đời phàm tục.
Võ Văn Luyến có một bài thơ với tứ thơ đã khá quen thuộc đối với nhiều nhà thơ Quảng Trị: Đi bên dòng sông tình sử. Riêng về đề tài này, anh viết không mới hơn, hay hơn hoặc sâu hơn, nhưng vẫn rất đáng trân trọng. Điều đáng trân trọng ấy là ý tưởng sâu kín ở ngoài bài thơ: Có gì đáng yêu hơn khi người yêu là cô gái quê nhà có cảm xúc gắn liền với tình sử quê hương, chứ không phải vay mượn từ văn hoá nước ngoài.

Thì đã yêu con sông khi đi bên em
Anh hoài cảm về cô lái đò ngày xưa ấy
Nước vẫn chảy bèo vẫn trôi
nhưng hình hài trái tim ở lại
Đập nhịp rộn ràng

Dẫu bao lần đến hẹn sang ngang
Cứ ngần ngại dòng sông nước chảy
Con đò trầm chìm một đời con gái
Có thể nào lặp lại trong nhau?…

… Cơ chi trời thắp nắng mãi mùa đông
Em ngồi kể mối tình xa xưa ấy
Rồi doạ dẫm: Nếu anh yêu thế đấy
Em sẽ làm con nước biếc nguồn trong!

Không phải con đò bằng trầm hương. Con đò dân dã đã trầm mình, chìm luôn một đời cô thôn nữ lái đò ngang tuyệt vọng, nông nổi quả quyết tự trầm mình! Nhưng cho dẫu nước chảy bèo trôi, trái tim Trương Chi trong lồng ngực cô gái lái đò xinh đẹp mãi mãi còn lại trong thơ. Cô gái Quảng Trị như anh viết, “duyên tơ một ngày thương đau trắng tóc”, còn chàng trai sĩ tử vác lều chõng vào kinh đô dự thi kia cứ vô tình biền biệt! Và anh còn bào chữa cho cô gái quê nhà nhẹ dạ, cả tin mà nặng tình, trọng tiết nghĩa, “nghĩa thương yêu, tội tình gì đâu / đa cảm thế, dễ dàng chi quên được”. Rõ là chất nhà thơ trong anh đã lấn át chất nhà giáo nghiêm khắc, tỉnh táo cũng ở trong anh.
Tôi cứ tiếc là Võ Văn Luyến không vượt được bốn câu lục bát ca dao tình sử:

Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cộ (:cũ) con đò khác đưa
Cây đa bến cộ còn lưa
Đò xưa sớm thác, người xưa chưa về! (2)

Dẫu sao, Đi bên dòng sông tình sử của Võ Văn Luyến vẫn thoang thoảng trầm hương tình sử quê nhà Quảng Trị. Giá như cô gái Quảng Trị nào cũng chung thuỷ với lời hẹn ước như thế nhưng không nhẹ dạ, cả tin và nông nổi đến thế.
Cũng về tình sử, nhưng tình sử Phong Châu, nơi có thành Cổ Loa và nỏ thần, có mối tình oan khốc Mỵ Châu. Một Mỵ Châu được Võ Văn Luyến gọi là nàng Mỵ (nguyên văn của anh là Mỵ nương với chữ nương không viết hoa). Một trái tim người nữ bị tên giặc Triệu – Hán gián điệp lôi vào mưu kế cướp nước. Một lưỡi gươm oan nghiệt của An Dương vương đã vung lên và người con thương quý đã chết, chết cái chết của kẻ phản quốc. Một khối trầm hương màu đỏ tía (hay khối trầm hương chết?) đã được nhân dân tạc thành tượng công chúa cụt đầu để nghìn năm, muôn đời mãi nhớ. Một kẻ gián điệp cướp nước nhưng không bội tình tự kết án trầm mình xuống Giếng Ngọc. Có điều rất lạ là Võ Văn Luyến dùng chữ trầm với hai nghĩa. Thật ra, trong chữ Hán, chỉ có một chữ trầm mà thôi. Trầm là chìm, là sâu kín. Cũng mặt chữ Hán ấy, trầm phải đi đôi với hương để thành từ ghép chính phụ trầm hương, có nghĩa là loại gỗ hương liệu bỏ vào nước thì chìm. Ta quen gọi tắt là [gỗ] trầm. Tên giặc Triệu – Hán tự kết án chết trầm mình và hoá thành “khối tử trầm” trương nước Trọng Thuỷ bên “khối tử trầm” cụt đầu nàng Mỵ? Điều rất lạ còn là Bạch Mã – Hải Vân hùng quan, chứ không phải là đèo Mộ Giạ (Mụ Giạ), nơi An Dương vương cùng đường, và cũng là nơi An Dương vương biết rõ Mỵ Châu cũng là một thứ giặc ngồi sau lưng! Điều rất lạ ấy phải chăng là lòng anh muốn bao dung đến mức chiêu tuyết cho cả Trọng Thuỷ gián điệp, và cải biên huyền sử để tôn thờ cả chú ngựa trắng (Bạch Mã), vốn là “chứng nhân” duy nhất của bi kịch cha giết con vì con là giặc phản quốc ấy?
Lại rất tiếc là Võ Văn Luyến chưa thật thành công trong thể lục bát ở bài Chiêu tuyết khối tử trầm này. Nếu ở những bài khác anh thành công, đây là bài thứ hai (gồm bài Tình ca mùa đông ở đoạn trên), anh bị vần và nhịp thơ lục bát (một thể thơ tuyệt vời nhưng đầy thách đố) níu vào khuôn sáo, cũ mòn về ngôn từ, hình ảnh.
Trong thơ Võ Văn Luyến còn có chút gì xao động của trái tim, nhưng không hẳn là cảm xúc – tâm hồn yêu đương, càng không phải là cảm giác – da thịt yêu đương.
Rõ ràng không chỉ khép lòng lại với quê nhà Quảng Trị, người thơ đã mở rộng lòng mình ra đến những vùng đất xa trên đất nước. Đó còn là Hà Nội, chút duyên đến từ một câu thơ hay, đưa đẩy tới một lần đi dạo cùng nhau dưới hàng cây sấu, và Hà Nội qua một giọng hát học trò. Đó còn là cô gái Cần Thơ thoáng gặp ở Huế. Không phải là tình yêu đương, cơ chừng là những giây phút đa cảm, lãng mạn mơ hồ.
Có thể những thi thoảng ấy cũng là trầm hương của gió, toả ra từ chính khối trầm kết tinh trong ngực anh, phập phồng, co thắt – rộng mở, để tâm hồn anh luôn hồng tươi máu ấm? Tôi nghĩ đến tình yêu con người trên những miền xứ sở đất nước, bất chợt người thơ phản ánh ra ở từng dáng dung cụ thể nào đó và đồng thời bắt gặp lòng mình ở từng dáng dung cụ thể ấy.

3

Mở tập thơ Trầm hương của gió ra, chúng ta còn thấy những bài thơ về những tình cảm ruột thịt, thân thương. Út ơi! Đó là tiếng gọi thầm thì thương nhớ, cũng là tên một bài thơ. Hình ảnh người cha cặm cụi bên chiếc máy may từ sớm cho đến lúc dĩa dầu hao khô, từ tuổi trẻ cho đến lúc mắt mờ, tay run trước đường kim mũi chỉ, hình ảnh người mẹ từ thời thôn nữ trăng rằm đến tuổi già xế bóng vẫn một nắng hai sương cấy gặt trên đồng, chợ chiều chợ sớm, khiến lòng ta chùng lại, và càng nghẹn thắt khi đó là hình ảnh của nỗi nhớ thương trong niềm tưởng niệm về người em gái út non yểu:

… Bố may đến dĩa dầu hao
Mẹ đi cấy. Út bám vào đôi vai
Dìu nhau chơi suốt cả ngày
Bạn bè hết dế đến bầy gà tơ
Lạ lùng thay, tuổi ngây thơ
Truyện Nôm làu thuộc chẳng chờ học xong…

Cha mẹ bận việc đến tối mắt tắt đèn, đứa anh trai phải cõng em gái út, dỗ em, chơi đùa với em, và nhờ nghe cha kể truyện thơ nên thuộc nằm lòng, lại kể cho em nghe từ tuổi chưa đến trường. Ngậm ngùi, đau xót là em không còn nữa trên đời, từ mấy mươi năm trước!
Thật ra, tôi đã diễn giải thơ Võ Văn Luyến. Với thơ anh, không cần đến thao tác đó. Thơ anh vốn trong sáng, dung dị, lại có dăm bài đã là một thứ truyện thơ dân dã. Chất truyện thơ này, chính anh đã nói lên nguồn gốc sâu xa của nó. Chỉ có đôi điều, tôi thấy tiếc, nếu anh dùng ngay tiếng địa phương Quảng Trị mình, như cha (hoặc bọ) và mạ, thay vì bố và mẹ, có lẽ những người đồng hương từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên – Huế xa quê sẽ bật khóc khi đọc Út ơi!.
Thơ Võ Văn Luyến còn rất xúc động khi anh viết về tình nghĩa trong hạnh phúc: hạnh phúc với người vợ (một cô giáo hệ mầm non) cùng hai đứa con gái cưng (Diễm Hạnh và Trang Phúc).
Trong thơ Võ Văn Luyến, bóng dáng quê nhà Quảng Trị xương rồng cát trắng vẫn rất trắng cát, nhưng thiếu hẳn màu xanh kiên cường, kiên tâm lạ lùng, hoa nở trắng muốt, nao lòng, say lòng và gai sắc đến bật máu tay vin, tay chạm vào đó. Anh không muốn nói đến gai sắc của loài hoa trắng muốt, thân khía cánh sao hoặc lá lưỡi rồng xanh, xanh một sắc xanh kiên cường, kiên tâm đến kinh ngạc ấy. Nhưng thật ra, gai sắc người ta vẫn yêu, như đã yêu hoa hồng, hoa bưởi lắm gai đó thôi. Và thật ra, tôi vẫn tìm thấy gai sắc trong thơ anh, loại gai cần có để lẩy những nhọt đanh cần lẩy kẻo ung thối da thịt người. Bài Làng xưa chứa đựng một niềm nhức nhối:

Nơi cất giấu sự bình yên
Bàn chân khắc đường kỉ hà năm tháng

Nơi những con đỉa đói lép kẹp
Một đời gập lưng đợi chờ bên cây lúa

Nơi lũ chuồn chuồn đẹp trăm sắc màu
Buồn không nhấc nổi mình bay liệng

Nơi hương đồng cỏ dại
Phung phí nỗi đam mê mòn vẹt

Làng làng làng làng làng
Đâu đó ai còn cất lên tiếng gọi!?

Tôi thật sự rùng mình kinh hãi. Làng xưa, chốn địa ngục do những Bá Kiến, những Nghị Quế thống trị đó sao? Những hình ảnh thường thấy, được chọn đặt vào thơ thành những ẩn dụ, mang ngữ nghĩa khác, tạo nên một lực phê phán nén chặt, và do đó, bùng nổ dữ dội. Làng thôn hôm nay được cảnh báo về nguy cơ vốn luôn luôn, muôn thuở mai phục – nguy cơ về sự tái lập địa ngục làng xưa, dưới bàn tay bọn cường hào ác bá mới, hút máu người, bóp chết ước mơ người! Đó là gai sắc của loài xương rồng hoa trắng trên miền cát trắng nghiệt ngã về thiên nhiên, tỉnh táo và sắc bén về trí tuệ, tầm nhìn.
Cho dẫu Võ Văn Luyến chỉ nói đến tâm hương chứ không phải hương trầm thật trong Út ơi!, hay không nhắc đến chút trầm hương nào trong bài Làng xưa, tôi vẫn bị tên của tập thơ là Trầm hương của gió ám ảnh. Như thể không nói đến gai sắc mà thật sự gai rất sắc, trầm hương ở đây là cũng như thế: hương của trầm (chất nhựa tinh luyện, cô đặc của một đời cây dó trên rừng thẳm) vẫn bảng lảng đâu đó từ cái tâm (trái tim) người viết.
Tôi có khiên cưỡng không, khi muốn bao quát hết tập thơ 67 bài của anh, vốn được anh tuyển chọn lại sau hơn 20 năm làm thơ, qua một tên chung cho cả tập? Thú thật, tôi muốn tìm ra một nẻo vào thế giới thơ của Võ Văn Luyến. Và từ góc độ trầm hương của gió mà anh đã định vị ở bìa sách, ở mỗi trang sách, với những ngã ba, ngã tư ý nghĩa (các tầng nghĩa) của cụm từ, tôi cảm nhận thơ anh.

4

Tôi biết Võ Văn Luyến không thể học được người thơ xưa, đốt trầm lên để làm thơ, ngâm thơ hoặc đàm đạo về thơ, trong làn hương thơm ngát với những sợi khói mỏng manh, la đà bay. Tôi cũng biết anh không thể đủ tiền để chơi sang bằng cách mua nguyên một khối trầm lớn, đem về khắc những hình ảnh kỉ niệm vào đó rồi đặt trên bàn viết. Thật ra, thi ca đã từ lâu rời khỏi những tao đàn quý tộc, quan lại, để về với giảng đường đấu tranh, chiến trường súng nổ, công trường dậy lửa, vỉa hè thành phố xô bồ, bùn đất nông thôn tĩnh lặng. Thi ca và trầm hương ngỡ không còn mối dây liên hệ nào. Nhưng cũng thật sự là không phải thế.
Thi ca và trầm hương vẫn còn đó, nhưng trầm hương là khối tim. Và không còn gió quẩn trong thi các, thi sảnh quan phương mà là gió đồng, gió biển, gió đồi, gió phố.
Trên khối trầm hương trong lồng ngực ấy, Võ Văn Luyến dành một chỗ cho tình đồng đội một thời làm nghĩa vụ quân sự ở biên giới phía Bắc, cho tình bạn của những người làm thơ, làm báo, dạy học.
Về tình bạn và duyên nghiệp thi ca, báo chí, Võ Văn Luyến viết được những bài thơ hay nhất trong Trầm hương của gió. Tôi chỉ xin trích nguyên văn 2 bài, không thêm một lời bình phẩm nào. Ai lại đi bình phẩm những gì đã thật sự làm mình rưng rưng nước mắt.

Khúc tang tình nhớ bạn (3)

Đường trăng lẻ bóng chân khuya
Nao nao một thuở đi về bên nhau
Nhiều đa mang vẫn cơ cầu
Chết trong hi vọng ngàn sau sạch lòng
Bạn vào phố thị người đông
Tôi về đồng đất cấy trồng niềm yêu
Thơ mang thời vụ ít nhiều
Nên chi dân dã bám theo kiếp người
Vẫn vầng trăng thắp bên trời
Vẫn câu nhân ngãi nói lời trái tim
Muôn sau đời mãi đi tìm
Muôn xưa còn đó nổi chìm lênh đênh
Mặc ai gõ nhịp kim tiền
Ta làm gõ kiến an nhiên hồn mình
Tình tang là cái tang tình
Vãn đường chợt thấy bóng hình trôi theo.

Cảm khúc

Tặng TXA., NH.

Bây giờ bên cốc rượu đắng
Bạn bè một thuở ra đi
Tôi ngồi bên tôi thầm lặng
Đèn xanh, ngọn đỏ, đề thi

Dặn lòng còn đầy thương nhớ
Dấu chân lối cũ đi về
Trắng đất, trắng trời áo trắng
Sao ta trắng nỗi đê mê?

Hành trang câu thơ mỏng mảnh
Gió bay qua mặt con người
Ta cúi nhặt từng con chữ
Ròng ròng cát trắng tuôn rơi…

Đã tự nhủ mình không nên bình phẩm trước những bài thơ tặng mình, khiến mình rưng rưng nước mắt, nhưng cũng không thể kìm được!
Tôi hiểu Võ Văn Luyến, anh muốn thể hiện một điều: Là nhà giáo, anh luôn luôn trắng nỗi yêu mê trước những tà áo trắng học trò phổ thông trung học. Yêu mê (yêu đương đến mê dại), chứ không phải đê mê (cảm giác mê mẩn bậc thấp hoặc trạng thái man mác, bát ngát). Người đọc thường tiếp nhận từ “đê mê” theo nghĩa thường dùng, phổ biến nhất (trong tiếng Việt hầu như chỉ có một nghĩa ấy)! Phải chăng, với nghĩa đó, nhà giáo Võ Văn Luyến đã khẳng định bằng câu hỏi phủ định một cách thẳng thừng, bộc trực đến thế? Thẳng thừng, bộc trực là điều khá lạ trong thơ anh. Và mặc dù người đọc đồng ý rằng, tác giả viết ra hai chữ “đê mê” để phủ định, nhưng ai cũng hiểu là, chỉ cần lỡ tay viết đến hai chữ ấy trong văn cảnh thể hiện quan hệ trong trắng học trò – bảng đen, phấn trắng đó, sẽ tạo nên một hiệu ứng phản cảm, ít ra cũng nghe rất chỏi, rất ngại.
Trong kho từ vựng còn có từ trầm mê, Đào Duy Anh định nghĩa bằng nghĩa mở rộng trong Từ điển Hán – Việt của ông: mê muội, đắm chìm [trong những giáo thuyết]. Ồ, với giáo thuyết nào, ta cũng cố thấu suốt, đồng thời phải cố vượt lên để làm chủ trí tuệ mình! Hình như anh chẳng nói thế là gì trong bài Tự sự trước năm 2000, một bài thơ trong Trầm hương của gió? Vậy thì, hãy tự hỏi vì sao ta trắng sạch nỗi trầm mê hoặc yêu mê chăng? Hay vẫn để nguyên văn câu tự hỏi, trước khung cảnh trắng đất, trắng trời áo trắng, ta biết vì sao ta vẫn giữ lòng trong trắng với nỗi man mác, bát ngát?
Và cũng phải nói thêm một điều nữa, trước khi khép lại bài viết đồng cảm, chia sẻ này. Võ Văn Luyến đừng lo thơ ca của mình rồi như nước lã, như cát khô chảy sạch qua kẽ tay. Con chim gõ kiến vàng, với một hình ảnh trong thơ hiện đại được nhiều người biết đến, ta ngỡ như biểu tượng gõ nhịp thời gian, cứ tích tắc, tích tắc, và bàn tay vốc cát khô, cát ròng ròng chảy, với tri thức văn học cổ, ta ngỡ như đồng hồ nước, đồng hồ cát, cứ rơi rơi, rơi rơi. Nhịp gõ tích tắc và tiếng rơi rơi, cũng như âm thanh của đồng hồ tự động, điện tử, sẽ mãi âm vang thầm thì vào vô tận. Chúc Võ Văn Luyến kiên tâm với nhịp trái tim – khối trầm hương thơ ca trong ngực mình. Rộn ràng. Tê dại. Xao xuyến. Trầm lắng. Náo nức. Và ở nơi lồng ngực đó, còn rất nhiều cung bậc khác của tình cảm con người, rất con người, nhưng căn bản vẫn rất đúng đắn, chuẩn mực – đúng đắn, chuẩn mực của thật – tốt – đẹp.
Đọc bài viết này, tôi hi vọng sẽ là một dịp Võ Văn Luyến nhìn lại để bước tới. Với tinh thần chia sẻ, nhất là có ý thức lắng nghe các phản hồi, những gì tôi viết, đúng hay sai, sâu hay cạn, khen hay chê, thiết tưởng không phải là vô ích. Bạn có thể thẩm định lại.
Nhà thơ – thạc sĩ văn chương Võ Văn Luyến vẫn còn nhiều tập thơ và tiểu luận. Bạn thân mến, tôi chúc tất cả sẽ được xuất bản trong nay mai!

Tp. HCM., 10 giờ 02 phút
ngày 12. 9. HB4
(28. 7 Giáp thân HB4).
TRẦN XUÂN AN

(1) Trầm hương của gió, Nxb. Thuận Hoá, 2003.
(2) Trong tiểu thuyết Bướm trắng, Nhất Linh có ghi lại bài ca dao này. Xem thêm: Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao Việt Nam, bản in lần thứ 8, Nxb. KHXH., 1978, tr. 298 – 299. Theo tôi nghĩ, trong sđd., Vũ Ngọc Phan đã chép lại một tục bản (bản viết nối), chứ không phải là dị bản. Nhưng không hiểu sao, Vũ Ngọc Phan lại tách ra làm hai, xem như hai bài độc lập, mỗi bài chỉ một cặp câu lục và bát. Nguyên văn như sau:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa
Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ!

Với tục bản này, ca dao Quảng Trị hình như đã được nhân dân ở đó sáng tạo thêm theo mô-típ (motif) “tình chị duyên em”, “tình bạn duyên mình” với hoàn cảnh cụ thể là con đò xưa (chị / bạn) sớm thác, thì con đò nay (em / mình) vẫn chờ sĩ tử (khách bộ hành), nếu người sĩ tử ấy thật sự có nghĩa. Tôi cũng mong chàng trai vào kinh đô dự thi ấy thật lòng có nghĩa thuỷ chung, không phải cố tình phụ bạc, nhưng vì hoàn cảnh nào đó, không thể quay lại với con đò hẹn ước.
(3) Trích đúng nguyên văn, có đối chiếu (để chỉnh sửa lỗi in ấn): Nhiều tác giả, Còn đây thương nhớ, tuyển tập thơ, Hội Văn học – nghệ thuật Quảng Trị xuất bản, 1993, tr. 41. Bài này còn được đăng trên tạp chí Cửa Việt, tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN.), nhưng rất tiếc, tôi chưa kịp tra cứu lại số và ngày tháng năm phát hành.


Đã gửi:

1. Võ Văn Luyến (ngay sau khi viết xong, 12. 9. 2004)
2. Inrasara (12. 9. 2004)

(Bài đã đăng trên Tạp chí Cửa Việt,
số tháng 11. 2004).


_______________________

Bài thứ ba

ĐỌC THƠ NGUYỄN TIẾN ĐẠT

Kính gửi đến gia đình
cố thi sĩ Nguyễn Tiến Đạt
với niềm tưởng tiếc khôn nguôi về anh.

TXA.


1

“Khi hỏi về quan niệm thơ, Đạt không nói, chỉ rung đùi ngâm hai câu thơ của mình:

‘Làm thơ không chết vì cơn đói
Nhưng đói chừ đây đến cuộc đày’.

Chúng tôi nghĩ không có cuộc đày nào dành cho Đạt cả, khi thơ anh luôn cuộn chảy trong bể khổ của con người. Đọc thơ Đạt cứ muốn khóc sau khi đã mỉm cười” (1).
Đó là lời giới thiệu của nhóm biên tập, tổ chức bản thảo (Hàn Vũ Hùng, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Quang Lập) về Nguyễn Tiến Đạt ngay trên chùm thơ năm bài của anh trong một tuyển tập thơ trẻ Quảng Trị. Ở trang trước đó, nhà văn Xuân Đức đã hai lần nhắc đến hai câu thơ khác của Nguyễn Tiến Đạt trong một bài đề tựa:

Vô vi thì buồn, viết thì sợ
Trời rộng, đành nâng chén ngang mày.

Trong bài tựa ấy, Xuân Đức tỏ bày một niềm băn khoăn, khắc khoải về mối nợ đối với lịch sử xa và gần của mảnh đất quê nhà, một xứ sở vốn thuộc bộ Việt Thường, rồi thuộc quận Nhật Nam, lại mang tên châu Ô và châu Ma Linh, sau đó được đổi làm châu Thuận, cuối cùng được gọi là Quảng Trị cho đến bây giờ (*). Theo nhà văn, mối nợ đối với lịch sử càng gần, càng nặng trĩu.
Bốn câu thơ được trích dẫn ấy, thật ra cùng ở trong một bài thơ, có nhan đề là Tặng bạn, thể hiện thái độ, tâm trạng cầm bút làm thơ của Nguyễn Tiến Đạt trước tình cảnh “manh áo miếng cơm quá lắt lay” đã làm tha hoá bạn bè, trước những ẩn sĩ non cao tránh né nhìn thẳng vào cuộc đời, mà chỉ “mãi nhìn con trẻ mắt thơ ngây”.
Nhưng không có gì quá khốc liệt, quá gay cấn, quá đụng chạm như lịch sử vốn thế, trong cả hai tập thơ riêng, Nguyễn Tiến Đạt đã xuất bản (2). Hoá ra, giữa “trời rộng, đành nâng chén ngang mày” chỉ là động tác bày tỏ một lời nguyện hứa với cuộc đời, về những gì còn chưa viết được.
Còn có thêm một điều nữa. Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi về một lời nhận định khác của nhà văn Xuân Đức được in ở phần gấp bìa bốn của tập thơ Người đi nhặt cuội:
“Anh hát vu vơ, nói bông phèng, nhưng mà khắc khoải, mà cô liêu, đôi khi gần với sự thảng thốt:

‘Đôi khi như hạnh phúc tê tái
Trầm trầm đưa tiễn đến muôn sau
Ba mươi năm nữa ai cuống quýt
Rưng rưng tóc bạc trút lên đầu’.

Cái kết cục nghe rùng mình, một sự thảng thốt đầy linh cảm định mệnh… Sự bất ổn trong con người Đạt thật đáng sợ. Thơ anh vì thế không lẫn được…”.
Tôi không hiểu sao Xuân Đức lại viết như một lời tiên tri về số phận tác giả, mặc dù đoạn thơ trong chỉnh thể bài thơ Đôi khi của Nguyễn Tiến Đạt hầu như mang một ý tưởng giản dị hơn. Đó là những khoảnh khắc tâm trạng bâng khuâng, hồi tưởng lúc một mình, được Nguyễn Tiến Đạt thể hiện qua 5 khổ thơ, mỗi khổ 4 câu, và khổ thơ nào cũng đều bắt đầu bằng hai chữ “đôi khi”. Mỗi khổ thơ là một đoạn độc lập, mặc dù mỗi đoạn có một hoặc hai ý tưởng về một hoặc hai khoảnh khắc. Điều cần lưu ý là các khoảnh khắc tâm trạng ở từng đoạn, rất khác nhau về không gian, thời gian. Nhìn chung, phần nhiều những khoảnh khắc ấy đã trở thành kỉ niệm về kỉ niệm. Nguyễn Tiến Đạt nhớ có đôi khi anh đã bâng khuâng, hồi tưởng về những gì đã xa xôi, đã trải qua trong quá khứ. Cấu trúc toàn bài là các đoạn (các khổ thơ) đẳng lập, không có đoạn kết. Đoạn thơ trên là khổ thơ cuối (không phải kết), viết về một lần trong “đôi khi” của anh. Lần ấy như thể một niềm hạnh phúc, nhưng là hạnh-phúc-buồn đến tê tái. Hạnh phúc tê tái ấy được anh thầm lặng đưa tiễn đến muôn sau, có lẽ bằng thơ ca, hoặc mệnh đề với chủ ngữ được hiểu ngầm (lược bỏ) đó chỉ là một cách nói đến ý niệm thuộc về mãi mãi. Và Nguyễn Tiến Đạt cho rằng, ba mươi năm sau, chính anh (với đại từ ai) là người sẽ cuống quýt nhớ về hạnh phúc tê tái một thời trai trẻ, và sẽ rưng rưng khóc, nghe tóc mình chợt bạc trắng như tơ trời bỗng đổ trút lên đầu.
Thơ là một thể loại có khả năng gợi nên nhiều chiều cảm nhận khác nhau, tất nhiên trên những điều kiện ắt có và đủ, vốn đã được nâng lên thành nguyên tắc lí luận văn học nhất định. Cách cảm nhận của nhà văn Xuân Đức chỉ là một trong vài hướng tiếp cận đoạn thơ trên của Nguyễn Tiến Đạt.
Tôi cũng nghĩ rằng, Nguyễn Tiến Đạt khi chọn nhận định trên của Xuân Đức để đặt vào phần gấp bìa bốn là anh đã chấp nhận những cách cảm thụ khác nhau, chứ chưa hẳn khi viết, Nguyễn Tiến Đạt đã hoàn toàn nghĩ thế. Vả lại, một nhận định (đặc biệt là nhận định văn chương) không hoàn toàn đúng, nhưng tương đối chính xác, đạt khoảng 80%, đã là một nhận định có giá trị. Thậm chí, tôi biết, hầu như khá nhiều nhà thơ rất ngạc nhiên khi nghe hoặc đọc những lời bình về thơ mình; và vốn phóng khoáng, họ cũng chấp nhận những cách cảm thụ khác nhau của nhiều người đọc trên một chỉnh thể văn bản bài thơ, tập thơ cụ thể của mình. Tất nhiên phải loại trừ cách cảm thụ phi nguyên tắc, dẫn đến sai lệch nội dung tư tưởng – hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Tuy nhiên, ở đây không phải vấn đề phương pháp luận cảm thụ văn học, mà là quan niệm, thái độ sáng tác của Nguyễn Tiến Đạt và số phận của anh.
Nguyên là sĩ quan công an, nhưng phục tùng không lâu, anh đã ra khỏi ngành. Phải chăng, do tư duy thơ Nguyễn Tiến Đạt vốn thế? Sau một thời gian thất nghiệp, anh chuyển hẳn sang làm báo (cộng tác viên của tờ Tuổi Trẻ TP. HCM., đồng thời là phóng viên chính thức của báo Quảng Trị).
Nguyễn Tiến Đạt đã qua đời do một tai nạn giao thông, và đã được an táng lại làng nghề đan chiếu Lâm Xuân, huyện Do (Gio) Linh quê nhà, vào ngày 22. 7. 2001. Anh chỉ sống 37 năm trên cõi đời này. Sự thể này, hoàn toàn bởi ngẫu nhiên, một ngẫu nhiên rất đột ngột. Tai nạn xảy ra chỉ cách thời điểm anh nghe tin mình được giải thưởng báo chí vài giờ đồng hồ (3). Chính ngẫu nhiên là “định mệnh” oan nghiệt?
Trên tay tôi hiện có hai tập thơ riêng của Nguyễn Tiến Đạt, do anh đề tặng và kí tên. Từ Quảng Trị, anh gửi vào địa chỉ nhà tôi, theo đường bưu điện và nhờ người quen trao giúp. Lúc này, thêm một lần nữa, tôi ngẫm nghĩ về người thơ Nguyễn Tiến Đạt trong nỗi ngậm ngùi, tưởng tiếc.
Những cảm nhận khởi đầu vềâ Nguyễn Tiến Đạt, số phận anh và quan niệm về thơ của anh là như thế.

2

Một nỗi niềm dễ nhận thấy ở thơ Nguyễn Tiến Đạt là yêu thương, khắc khoải và luôn hoài nhớ làng quê Lâm Xuân của anh, mặc dù thời gian anh xa Quảng Trị để vào Huế học đại học, ra Lạng Sơn làm nghĩa vụ quân sự là không bao lâu, và làng quê ấy không xa cách mấy với Đông Hà (tỉnh lị của Quảng Trị), nơi anh có thời gian công tác khá dài. Đúng hơn là Nguyễn Tiến Đạt để lòng mình luôn hướng về Lâm Xuân, một làng quê bao đời dòng họ anh khai canh, lập nghiệp, sinh sống ở đó, ngay cả trong giai đoạn anh ở Đông Hà – giai đoạn sáng tác chủ yếu của anh. Làng Lâm Xuân là núm ruột trong thơ anh. Thông thường, có đi xa mới nhớ; càng xa, càng nhớ; càng khó có dịp về làng, càng nhớ thương da diết. Đằng này, từ nhà anh, cơ quan anh phóng xe về làng, đi chậm lắm cũng nửa tiếng đồng hồ, có gì đâu mà khắc khoải, hoài nhớ đến vậy! Có gì lạ thường không, khi tâm hồn Nguyễn Tiến Đạt là thế?
Đó là nỗi nhớ thương thời niên thiếu trong bài Tuổi thơ, là hoài niệm thời có một mối tình thoáng nhẹ, thầm kín mà khôn nguôi ray rứt trong Thôn quê. Và ở nhiều bài khác nữa, hay hơn, sâu hơn nhiều. Nhưng đậm nhất nỗi niềm ấy với ngôn từ trực tiếp nhất, vẫn trong bài Tôi có một làng, anh viết để chia sẻ với nhiều người và để tặng con trai Tiến Nhất của mình. Bài thơ phân làm 3 đoạn, viết về 3 thời của đời người. “Tôi có một làng để khóc”, đó là tiếng khóc sơ sinh, chào đời của Nguyễn Tiến Đạt. “Tôi có một làng để sống”, từ bé cho đến khi trưởng thành, và ngay khi ở Huế, Lạng Sơn, Đông Hà, anh vẫn sống bằng cả tâm hồn mình ở đó. “Tôi có một làng để chết / Trái tim thề giữ vẹn tròn / Có người vợ nghèo ngồi hát / Trĩu hồn nuôi lấy cái con!”. Và điệp cú như những âm hưởng vang vọng không dứt, lan vào miên viễn cuối bài, “Tôi có một làng… Tôi có một làng!”. Câu cuối như một khẳng định tự hào, tự hào mà thống thiết. Tôi nghĩ, phải chăng sau này, có nhớ thơ Nguyễn Tiến Đạt là nhớ làng quê Lâm Xuân, một ngôi làng gần kề bên bờ sông Bến Hải (Hiền Lương); nhớ làng quê Lâm Xuân là không làm sao quên được một đời thơ Nguyễn Tiến Đạt, người thơ ấy đã khóc chào đời, đã sống bằng cả tâm hồn thơ ca, sống với, sống vì Lâm Xuân, và chết với ước nguyện được yên nghỉ nghìn đời trên mảnh đất làng quê ấy. Trong giây phút cuối của đời mình, tôi tin rằng anh vẫn vừa tưng tửng vừa quằn quại bấu víu vào làng quê Lâm Xuân trong trái tim anh để mong được sống lại, như những lúc ngã lòng trước khó khăn, thách đố giữa đời:

Một vùng quê đủ đàn cò đậu
Trọc lóc tên riêng giữa bản đồ
Đến lúc ngã lòng tay ta vấu
Vào giữa tim mình mắt mở to.
(Quê cũ)

Quảng Trị có một người thơ những năm cuối thế kỉ XX lạ lùng đến thế!

Thì còn đây ẩn hiện những ngày xưa
Sau cuộc tàn còn mấy đầu bè bạn
Em là nơi tôi cần gửi tấm thân nhỏ mọn
Trước khi về lạy mẹ giữa đồi hoang!
(Vẫn còn đây thương nhớ)

Cùng con đánh chiêng nhà thờ họ Nguyễn (họ Nguyễn làng chiếu Lâm Xuân) là một bài thơ mang giọng điệu riêng tưng tửng của Nguyễn Tiến Đạt, lại có một tứ thơ giản dị mà bất ngờ, nên mới mẻ và rất ấn tượng, cùng một ngôn ngữ thơ dân dã:

Đưa con về vái họ hàng
Tạ cùng dòng giống xa làng bấy nay
Cha sinh chỉ một chốn này
Mới sinh con giữa phố đầy đèn hoa
Chiêng này con đánh giùm cha
Đánh vang cho họ Nguyễn ta cùng mừng
(…)

Tiếng chiêng vời vợi và sâu thẳm trong thiêng liêng, “tiếng cao gửi núi tiếng chùng gửi sông”. Cảm xúc còn được thể hiện cùng những suy tưởng, khi cùng con trai chắp tay suy niệm trong nhà thờ họ tộc:

Lòng thành dâng một nén hương
Cúi xin trời đất công ơn sâu dày
Nhà thờ phượng múa rồng bay
Cây đa còn đó trúc này còn đây
Tiếng chiêng gọi kẻ lạc bầy
Ai chê phận bạc, ai rày phận đen
Quê hương máu chảy ruột mềm
Trăm năm chỉ một cõi thiêng cội nguồn!

Những con đường làng có vài đoạn khó quên, bởi sau giọng thơ bi tráng và khinh bạc, là cả tấm lòng của người đặt núm ruột vào đất quê:

Nhạt lưỡi nửa đời qua sấp ngửa
Ta giờ chân mỏi gối, tay run
Khập khễnh bờ đê xin được hú
Sức tàn lan rợn một dòng sông

Rằng có hay không em giữa đời
Sao trời bé quá, trăng trời vơi (4)
Trăm năm nhìn lại ra một cục
Xin ném ta vào ô đáo chơi!

Bài Mugic viết về chất nông dân, chất làng quê trong chính anh với niềm tự hào, tự tin của một người đã trải tầm nhìn ra cả thế giới, là một bài thơ khá hiện đại của Nguyễn Tiến Đạt, nhưng cũng với giọng điệu rất riêng của anh. Đối với Nguyễn Tiến Đạt, dẫu hiện đại (có lẽ nên gọi là tân kì [moderne], tân thức [modern-style]) hay dân dã, vẫn là giọng điệu riêng, tạng chất riêng.

3

Viết về quê hương mình, Nguyễn Tiến Đạt có nhiều bài thơ về sông Bến Hải (Hiền Lương) thật xúc động. Có điều tôi nhận ra, hầu như hơn một nửa trong chùm thơ này (ở cả 2 tập), đều được anh viết với thể thơ tự do, với những hình ảnh thơ, ngôn từ thơ khá mới mẻ.
Tôi không thể không xúc động khi đọc Dòng sông đời mạ, cho dù đó là một bài thơ tuy hay nhưng còn đôi chữ đáng tiếc (giá như Nguyễn Tiến Đạt đã thay bằng những chữ khác! (5)). Không những hay, bài thơ còn mới lạ (tân kì) nữa, nhưng không phải là tân kì ở việc tìm kiếm thi liệu, mà ở cách khai thác, cách nhìn thi liệu:

Con phượng hoàng nào chết xuống trảng cát này
Để dấu chân sinh ra những dòng sông chảy về biển cả
Nước đỏ phù sa như máu từ thân mạ
Lau lách cùn vẫn trổ màu cờ hoa!

Đôi lúc con ngồi nghĩ chuyện gần xa
Thấy nón rách mạ như trăng mùa đông giữa trời quên lãng
Thấy đường trời cong như lưng mạ oằn qua năm tháng
Phía dưới bầu vú mạ cạn lại đầy cho sông chảy trăm năm
(…(5))
Có phải thế nên đàn con mạ lớn lên
Chẳng đứa nào mơ giấc mơ ở lại
Con gái lấy chồng xa con trai cùng chiến trường dầu dãi
Nghe tiếng trẻ thơ mạ chống cửa khóc thầm

Mười năm… Ba mươi năm từ bụng mạ lớn lên
Số phận cho con, chỉ một kẻ lang thang bốn phương mười hướng
Biết làm sao, biết làm sao khác được
Thì mong chi! Thưa mạ chút an lòng

Bất chợt chiều nay một mình đứng bên sông
Ngoảnh mặt về quê gọi con đò xa vắng
Giật mình: thân mạ – chống trời mây…

Nhưng tân kì (hiện đại, moderne & tân thức, modern-style) hơn vẫn là Bến Hiền Lương trong tập Khúc hát tình tang. Nguyễn Tiến Đạt rất ý thức phân biệt giữa mô-đéc cầu kì, lập dị đến mức dị hợm với mô-đéc mà rất truyền thống. Tôi không thể không trích nguyên vẹn bài thơ này, nhưng tạm ngắt dòng bằng dấu sổ:

“I. Những loài chim về bên kia sông giấu nỗi buồn con gái / Bên này sông có ngôi mộ của mẹ già suốt đời không qua nổi bên kia / Con sông tày gang dấu huyền trăng ơi hời ru muôn thuở / Tiếng ru của đá và tiếng ru của sóng chảy dọc suốt đời tôi dòng máu Hiền Lương / Em ơi nơi ấy tôi sinh, mẹ ủ tôi bằng lá cỏ gai dưới gầm trời bom đạn / Tôi lớn lên như con còng ngơ ngác nhìn sông trôi bóng mẹ hoài chùng xuống / Trên dòng sông vọng điệu hò đưa linh / Của những nỗi niềm tiền kiếp / Rào rào đỉnh dốc Trường Sơn / Chiến tranh rạch qua đời tôi những đường sấm sét / Người đôi bờ nửa đêm hay thức giấc / Cả những đêm sau năm 2000 / Những người già chưa bao giờ qua được bên kia sông / Hồn vẫn còn lởn vởn trên mặt nước / Đêm đêm tôi nghe những tiếng gọi đò và tiếng người xin lửa / Họ ra đi trước ánh nắng mặt trời thắp lên / Ngủ yên sông ơi! Niềm tâm thức nhạy cảm của tôi!
II. Tôi như chú ếch uôm uôm triệu năm há mồm trên bến vắng / Đợi gánh hát em về áo mũ xênh xang / Hãy hát đi! Con sơn ca rót mật lưng trời / Sông bắt đầu ngân rồi đấy, ánh trăng chung chiêng […] cùng con đò / Từ tiếng hát của gió chảy ra tất cả / Chảy ra mặt trăng ngủ quên dưới nước / Chảy ra dòng sông chưng cất bằng hồn của đá / Chảy ngàn khát vọng giọt sữa ru con / Trong ánh sáng của vầng phù sa cổ / Em nghe không bên kia bờ Vĩnh Quang / Tiếng bè trầm của những oan hồn trong lòng địa đạo / Và âm cao của sóng dâng rạn vỡ lồng ngực / Như vạn hạt mầm xé đất xanh lên / Em nghe không những nấm mộ trắng trên nghĩa trang Trường Sơn / Âm u hát báo giờ rạng sáng / Tiếng hát theo sông trôi dọc xóm làng / Hoá triệu ngọn đèn thắp đỏ cơn giông/ Em nghe không người thợ cầu vung đường búa bằng ánh sáng / Chiếc cầu trăng đã bắc qua rồi / Vẫn có những con chim treo mình hộc máu / Trên bến Hiền Lương vọng trắng tiếng gọi đò / Cho qua một chút / Cho qua một chút / Cho qua một chút…”

Đó là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Tiến Đạt viết về Sông Tuyến, con sông Vĩ tuyến 17, một thời đau thương bi tráng, mãi mãi còn trong lòng người Quảng Trị, mãi mãi in đậm vào lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. Ngoài ra, anh còn hai bài, Bến sông I, Bến sông II. Trong đó, đặc biệt bài Bến sông II ở thể thơ sáu chữ, vừa cổ điển vừa tân thức, là một bài đẹp hoàn chỉnh.

(…)
Thế mà trăm năm lỗi hẹn
Bây giờ em hát ru con
Tóc xanh ngàn năm buông trễ
Giật mình giọt sữa lăn tròn
(…)
Anh đừng nhắn qua bè bạn
Hiền Lương có một người về
Em thà như con nước lặng
Đừng làm đuối một bờ đê…

Tôi biết viết thêm gì về dòng sông lịch sử, vết thương Việt Nam – vết thương thế giới này, khi tôi đã viết về nó nguyên một cuốn tiểu thuyết hơn 600 trang! Và tôi còn biết viết gì nữa, vì thơ Nguyễn Tiến Đạt ở đề tài này, khi thầm đọc, nghe tự nó đã vang lên thấm thía vào lòng ta…

4

Thị xã Đông Hà, trước Nguyễn Tiến Đạt, cũng có nhiều người thơ viết về, nhưng với anh, Đông Hà trở thành một nỗi niềm chiếm lĩnh với một tỉ lệ không nhỏ trong hai tập thơ của anh. Nguyễn Tiến Đạt hầu như bao giờ cảm nhận và thể hiện về Đông Hà cũng không thể không bằng tâm trạng của chàng trai làng chiếu Lâm Xuân. Tập trung nhất cảm nhận với tâm thế ấy của anh về Đông Hà là ở 3 bài thơ: Em ơi! Thức cùng thị xã, Ghi chép ở một góc phố và Thị xã.

“Đêm nay nghe dòng sông chảy về biển cả / Thao thiết lòng dâng tiếng mẹ ru hời / Trăng treo trên đầu phố cũ / Biết mẹ ta còn thức trên đời / Từ thuở em rời vườn cấm / Đến cùng anh ra phố chợ trời…”
(Em ơi! Thức cùng thị xã)

Phải chăng anh viết những câu thơ đẹp và sâu thẳm, lại rất đời thường kia trong những ngày thất cơ, thất nghiệp, phải lăn lộn giữa chợ trời bán buôn kiếm sống? Cũng với bài thơ có ghi rõ viết tặng Đông Hà đó, Nguyễn Tiến Đạt có đôi câu học theo cách nói gần như trong Trường ca Đăm San của đồng bào Tây Nguyên (lấy độ ngân âm thanh để đo chiều dài không gian), nhưng lại mới mẻ lạ thường:

“Ngày mình yêu nhau anh thấy mặt trời đỏ trong lồng ngực / Tung hô thị xã trên vai mình / Anh biết mình ở đâu để không buồn nếu mất tất cả / Khi tựa vào em anh mơ đoạn đường dài / Thị xã không dài hơn tiếng vọng còi tàu / Ai cũng thức anh hẳn tin là thế / Phía cuối con tàu sẽ chạm đến bình minh”

Điều đáng nói nữa là đoạn kết của bài Em ơi! Thức cùng thị xã. Đoạn kết quá đỗi bất ngờ, tạo cho bài thơ một tứ thơ không thể không in sâu vào tâm khảm người đọc:

“Dậy đi em! Dậy đi em! / Có ai xiêu vẹo ngoài kia chúng ta cùng đón / Có thể là người cụt chân đi tìm lại chân mình / Chiến trường xưa giờ đã cao tường kín cổng / Hãy dựa vào bàn chân còn lại của anh / Để biết thế nào là sự sống / Anh yêu em! Yêu quá vô ngần”.

Hai vợ chồng trẻ, mặc dù thất nghiệp, nhưng dĩ nhiên cả hai đều lành lặn tay chân và hơn thế, còn rất khoẻ mạnh, bảo nhau phải dựa vào bàn chân còn lại của anh thương binh, vốn là người cụt chân đi tìm lại chân mình, mới giác ngộ ra chân lí sự sống. Tứ thơ là cả một triết lí sinh động, sâu sắc.
Thơ Nguyễn Tiến Đạt không những rất dân dã ở những bài lục bát trên kia, mà ở đây, còn thể hiện thêm chất tân kì – truyền thống – trí tuệ.
Và Đông Hà của Nguyễn Tiến Đạt còn là thế này đây:

“Đông Hà / Lóc xóc ổ gà / Liêu xiêu thi nhân / Con gái như loài ong tổ vỡ / Mịt mù bay qua / Gió ngang dọc / Bám theo cơn lốc xe hàng / Và đất đá / Khi tan ra ngửa mặt nhìn trời / Và những ngày xưa cũ / Không ra đi nằm lại trên đồi / Chợt gặp miếng ăn chưa đủ / Tấm lưng còng nắng xỉa những làn roi… /(…)/ … Thị xã mê cuồng / Không đâu là buồn / Ô kìa! Gã thi nhân cô độc / Hát cùng trăng suông…”
(Thị xã)

Mảng viết về phố thị, không hẳn là Đông Hà, ở bài Khi chúng tôi trẻ lại có những chi tiết hầu như các trang báo hàng ngày đều phơi bày:

“Tôi lớn lên thiếu vắng những câu Kiều / Những cánh cò cũng hoá thành chuyện cổ / Những cô Tấm bỏ làng ùa lên phố / Cởi áo trúc bâu để đổi lấy mốt rin-bò (**)/ Những Lục Vân Tiên bị bọn võ mồm vỗ mặt / Cứ câm câm điếc điếc ngơ ngơ / Tôi lớn lên chiến tranh đã tắt lâu rồi / Chuyện thường ngày người ta ít gọi nhau là “đồng chí” / Là “sếp” là “em” là những cuộc say bí tỉ / Là nụ cười như có lại như không / Là bán mua đổi chác lòng vòng / Lại nghe nói thời thị trường nó thế! / Trăm thứ bán mua không bằng đầu cơ mua ghế / Ghế nhỏ, ghế to, ghế còi, ghế mập, ghế lùn, ghế cao / Mua đi bán lại đầu ra đầu vào / Tham lam bạc đầu thường vào ghế đá…”

Với phong cách thơ thế sự của riêng Nguyễn Tiến Đạt, anh viết tiếp, đây là thời “thừa những cuộc đua xe, những cuộc thi mông thi ngực”, “rộn ràng chuyện lên lương lên chức / ngày hôm nay mấy triệu bạc là xong”, đây là thời của “những cô gái hát nhạc Tây và đếm tiền / mười ngón sen gõ computer nhẹ nhàng như cởi áo lên giường ngủ / câu ca dao mỏng tựa váy nhàu / để biểu đạt bài ca ‘hoàn cảnh’”. Mặc dù không thể phủ nhận mức tăng năng suất trên những cánh đồng, dân trí được nâng cao, nhưng phải thấy mặt trái của kinh tế thị trường, thời “mở cửa” là vẫn đáng ngại. Anh viết: “Thời tôi sống lúa chín vàng hơn trước / Những nông dân đọc sách và làm đồng / Lúc nhúc cử nhân đứng chờ ngoài hành dinh cơm áo / Chữ nghĩa bỏ thây trên những đống xương bò / Xin tạ tội cùng Nguyễn Du Nguyễn Trãi / Biết bao giờ tôi được khóc cùng ông?”.
Chàng nông dân – thi sĩ Nguyễn Tiến Đạt đã sống và viết về phố thị như thế.

5

Một đặc điểm của thơ Nguyễn Tiến Đạt, như đã trình bày, là tưng tửng. Có lẽ phải dùng từ cho thật chính xác tuỳ theo những cấp độ, cung bậc của chất giọng này, ngoài cái tưng tửng ấy. Đó là tiếu ngạo, là khinh bạc, là nói trạng, là cười ngông, là ngang tàng… Chữ của nhà văn Xuân Đức là “nói bông phèng” mà “cô liêu”, “thảng thốt”, ẩn giấu một tâm trạng trước cuộc sống hôm nay là nỗi niềm “bất ổn đáng sợ” (1). Nhưng tất cả cung bậc “trạng” ấy đều ở cùng hoặc ở bên cạnh giọng thơ tha thiết, chân thành và có chất trí tuệ của anh. Hàn Vũ Hùng, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Quang Lập đã rất tinh tế: “Đọc thơ Đạt cứ muốn khóc sau khi đã mỉm cười” (1).
Nói trạng, theo chữ Nam bộ của bác Ba Phi là nói dóc cho dzui. Nói trạng theo tiếng Bắc bộ là nói phét nhưng cho người nghe hiểu là nói phét để cười vui, chứ không nhằm lừa đảo, khoe khoang. Đó vốn là một đặc điểm của Quảng Trị tự nghìn xưa. Nay còn một làng nói trạng nổi tiếng khắp cả nước là Vĩnh Hoàng. Và thơ Quảng Trị xưa nay vừa trữ tình da diết vừa nói trạng chỉ có mỗi một Nguyễn Tiến Đạt. Ở thơ Trần Đình Túc, Nguyễn Văn Tường (hai đại thần, một chủ hoà, một chủ chiến, thời Tự Đức), thơ Chế Lan Viên, Phan Văn Dật (hai thi sĩ tiền chiến, một tập kết ra Bắc, một vào Huế giảng dạy ở Đại học Văn Khoa), Vĩnh Mai, Dương Tử Giang, Hồ Vi, Lương An (các nhà thơ kháng chiến chống Pháp), và về sau (thời Nam – Bắc chia cắt), thơ Nguyễn Thị Hoàng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phan Phụng Thạch, Lê Thị Mây, kể cả thơ tôi (Trần Xuân An) lẫn thơ những người thơ cùng thời với Nguyễn Tiến Đạt (thời Đất nước thống nhất)… tất thảy đều không có chất nói trạng đáng yêu đó. Hoàng Phủ Ngọc Phan cũng chỉ là một nhà văn thuộc trường phái Tú Xương, chứ không có chất nói trạng trong thơ.
Hầu như trong hai tập thơ của Nguyễn Tiến Đạt rải rác đều có chất nói trạng rất Quảng Trị.

… Hà Nội lần đầu tôi gặp
Ngẩn ngơ em đẹp mê hồn
Cái tiếng miền Trung trọ trẹ
Tôi làm sao nói chữ thương?

Liều mình đứng trên gác nhỏ
Hét vang như một gã khùng
Em chẳng thấy gì là lạ
Bước đi nào chút ngập ngừng

Chẳng lẽ mình lao xuống đất
Uổng đời danh giá thi nhân…
“Uổng đời danh giá thi nhân”!

Ồ, trạng đến rứa!
Dẫu đáng yêu là thế, bài thơ này vẫn còn có câu nói trạng hơi thô ở đoạn kết (“ta cùng Hà Nội ái ân!” – tôi hiểu, với cả Hà Nội, chứ không thèm với một cô nàng, nghĩa là không có gì xảy ra)! Ngoài ra, ngay ở đoạn trích trên, mặc dù nói trạng, nhưng là tự nhún mình cho khiêm tốn mà trạng, anh cho rằng giọng Miền Trung của anh “trọ trẹ”. Giá là tôi, tôi sẽ viết: Cái tiếng Miền Trung Việt cổ, hoặc Mường cổ, như các nhà nghiên cứu lịch sử ngữ âm học tiếng Việt đã đúc kết, việc gì phải tự trào với sự hạ mình như thế! Nhưng rồi ngẫm ra, đó cũng là một trong những biện pháp nghệâ thuật của phép nói trạng!
Phải nói là giọng thơ của Nguyễn Tiến Đạt bao gồm cả hai khía cạnh: có khi trữ tình thắm thiết; có khi vừa trữ tình vừa nói trạng một cách đáng yêu. Khía cạnh thứ hai trong phong cách thơ anh là rất độc đáo.

6

Tôi với Nguyễn Tiến Đạt có một vài kỉ niệm văn nghệ. Không những anh viết bài về thơ tôi và về tiểu thuyết tôi trên báo, Nguyễn Tiến Đạt còn cắt ra từ báo, đồng thời viết thư gửi kèm từ Quảng Trị quê nhà vào. Quý tấm lòng của anh, cho đến nay, tôi vẫn còn giữ lá thư ấy. Tôi không ngờ đó là những dòng chữ cuối cùng anh viết cho tôi.

“Đông Hà, 5 - 11 - 1999
Anh An kính mến!
Bữa trước em có nhờ anh Hà Đình Nguyên và Thanh Bình (báo Thanh Niên), gửi tặng anh tập thơ Khúc hát tình tang của em do NXB. Văn Học ấn hành. Không biết anh đã nhận được chưa?
Về những cuốn tiểu thuyết của anh (***), em đã đọc ngấu nghiến và rất thích. Sức viết và sáng tạo của anh thật mãnh liệt. Ở báo Quảng Trị, em chỉ giới thiệu đôi lời, không đi vào phân tích thủ pháp mà chỉ dừng lại ở cảm nhận (****) . Em viết trong khi cơn lũ quê nhà xảy ra. Vì thế bài viết này cốt ở tấm lòng nhớ đến anh, chứ không phải là bài nghiên cứu. Được giới thiệu anh với quê hương là một điều vui rồi.
Em gửi báo để anh làm kỉ niệm. Chúc anh sáng tác nhiều và thực sự trở thành một tác gia. Hiện nay em là biên tập viên Báo Quảng Trị, công việc lai rai cả ngày.
Điện thoại của em tại cơ quan: (053) 852528 – 853418; nhà riêng: 852040.
Thế nhé. Chúc anh khoẻ. Cho em gửi lời thăm anh Nghiêm và bạn bè.
(kí tên)
Nguyễn Tiến Đạt”

Đó là tấm lòng của Nguyễn Tiến Đạt với văn chương và anh em, bạn bè. Tấm lòng ấy thể hiện một cách chân thành trên trang thư anh viết.
Trước đây, khi Nguyễn Tiến Đạt còn sống, mãi bận bịu những công việc nghiên cứu, sáng tác, tôi nào kịp viết gì về thơ anh! Lúc này, tôi những muốn viết thật kĩ, thật đúng về thơ Nguyễn Tiến Đạt hơn nữa, như một chút đáp tạ. Có điều, chắc chắn Nguyễn Tiến Đạt cũng chẳng mong sự thù tạc tầm thường. Anh chỉ cần những thẩm định chính xác, đúng mức. Nén đi những xúc động riêng tư, tôi nghiêm túc viết về thơ anh, có chỗ lại nỡ lạnh lùng chê một vài khuyết điểm mà Nguyễn Tiến Đạt không còn cơ may nào để sửa chữa được nữa! Biết làm sao được! Với thơ anh, tôi vẫn giữ lòng và giữ phím máy vi tính như đối với một tác giả quá cố, thật tâm tôi yêu thích, quý mến và luyến tiếc.
Nhưng dẫu sao đi nữa, đây là nén hương tôi chân thành tưởng niệm nhà thơ Nguyễn Tiến Đạt.

TP. HCM., khởi viết từ khoảng 14 giờ ngày 17. 9. HB4;
viết xong vào lúc 17 giờ 42 phút ngày 19. 9. HB4
(06. 8. Giáp thân HB4, sắp đến tiết Trung thu).
TRẦN XUÂN AN

(1) Nhiều tác giả, Còn đây thương nhớ, tuyển tập thơ, Hội Văn học – nghệ thuật Quảng Trị xuất bản, 1993, tr. 11.
(*) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch Phạm Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh, tập 1, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 13 – 16, 87 – 93, đặc biệt là tr. 98 – 99; xem thêm: Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 197 – 199.
(2) Nguyễn Tiến Đạt, Người đi nhặt cuội, tập thơ, Nxb. Thanh Niên, 1996 & Khúc hát tình tang, tập thơ, Nxb. Văn Học, 1999.
(3) Lê Đức Dục, Thương tiếc nhà thơ Nguyễn Tiến Đạt, báo Tuổi Trẻ TP. HCM., số ngày thứ năm, 26. 7. 2001, tr. 9.
(4) Khúc hát tình tang, sđd, tr. 15: Nguyên văn: “Sao thời bé quá, trăng thời vơi”. Thời là âm khác của hư từ thì. Tôi ngờ rằng có sự sai về lỗi in ấn, hoặc Nguyễn Tiến Đạt có ý tập cổ với giọng điệu cuồng sĩ ngày xưa.
(5) Người đi nhặt cuội, sđd., tr. 23: Nguyên văn: “Chúng con sinh ra bên dòng sông, những dòng sông / Rúc ráy thân hình Người tìm con tôm con tép / Những vỏ cua hoá thạch ánh ngân hà / Những mẻ lưới từ bụng mạ đầy con rô con chép / Nhắc huyền thoại hoá rồng chở bùn đất bay xa!”.
Theo tôi, cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong phương thức ẩn dụ luôn luôn phải khớp với nhau, đồng thời cùng tạo ra hiệu quả thẩm mĩ. Nếu không, về mặt nghĩa đen của cái diễn đạt sẽ rất buồn cười, phản cảm. Lẽ ra, nên thay “thân hình Người” và “bụng mạ” bằng “Sông Mạ”. Đó là một cách sáng tạo biện pháp tu từ: rút gọn nhan đề, sử dụng như một danh từ riêng (tên sông, như Sông Cái…; tên thác, như Thác Bà, Thác Ông…). Như thế, có lẽ sẽ đạt hơn một chút nào chăng.
(**) Áo quần Jeans hay còn gọi là áo quần bò hoặc rin-bò (vì nguyên là trang phục bảo hộ lao động của giới chăn bò, cowboy; nay đã thịnh hành trên khắp thế giới) (TXA. chú thích).
(***) Gồm cả các bản thảo tiểu thuyết chưa in. (TXA. chú thích).
(****) Trần Xuân An, Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999. Nguyễn Tiến Đạt gạch chân. (TXA. chú thích).

Đã gửi:

Võ Văn Luyến (22. 9. 2004) để nhờ chuyển đến:
1. Tạp chí Cửa Việt
2. Gia đình Nguyễn Tiến Đạt.



_________________________

Bài thứ tư

ĐỌC THƠ PHAN VĂN QUANG

1

Hồi còn là sinh viên, bên một vài quầy báo ở Huế, tôi đã đọc loáng thoáng thơ tình Phan Văn Quang trên những tạp chí văn nghệ được ấn hành tại Sài Gòn. Sau Ngày Thống nhất khoảng hơn hai năm (vào đầu học kì 2, năm học 1977 – 1978), trên một chuyến xe khách từ Đông Hà vào Huế giữa đợt thực tập sư phạm, tôi không ngờ người ngồi cách mình không xa, lớn hơn tôi khoảng sáu, bảy tuổi, chính là anh. Hẳn anh có một vài người em, người cháu học ở Trường Cấp III Đông Hà, nên qua đó, Phan Văn Quang biết tôi, và anh ngỏ lời chào.
Có thể gọi đó là một chút cơ duyên văn nghệ.
Mãi đến khi Phan Văn Quang đảm trách công việc phát hành tạp chí của toà soạn Cửa Việt, tại Thành Cổ, thị xã Quảng Trị, tôi mới có dịp cùng anh thân quen, nhất là những dịp anh vào Hải Lăng, một huyện gần đó.
Đúng như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu ở đầu tập thơ riêng Ta ôm một nửa đời luân lạc: “Phan Văn Quang là một nhà thơ thuộc ‘trường phái phong trần’ kia mà tôi may mắn được đánh bạn trong những ngày trở lại cố hương; gương mặt chì bởi nhiều màu nắng, áo cũ bởi nhiều bụi đường, và thơ mang không gian rộng của những phương trời”; “Đọc tập thơ đầu tay của Phan Văn Quang, dù mỏng thôi, tôi tin anh là thi sĩ” (1).
Chất thi sĩ của Phan Văn Quang chỉ có thể nhận biết lúc đọc thơ anh, và đặc biệt là lúc nghe anh đọc thơ. Giọng nói anh thường khi là khá nhanh, nhanh đến nỗi nuốt chữ, ngỡ như anh luôn luôn tất bật, hối hả đến hụt hơi, nhưng giọng đọc thơ của Phan Văn Quang lại trầm lắng, da diết.
Đọc thơ của một người thơ dám bảo với cuộc đời như tự nhủ với trái tim mình rằng, Ta ôm một nửa đời luân lạc, tôi không thể không nhận ra lòng yêu đời của Phan Văn Quang, cho dù nửa cuộc đời anh trải qua là trôi nổi, chìm đắm.
Tôi không nghĩ điều cảm nhận đầu tiên đó chỉ là ấn tượng về một con người mà tôi được quen thân, nhiều lần gặp gỡ, chuyện trò, trà rượu, ngâm hát, rong chơi. Không, điều đó thể hiện rất rõ ngay trong chính hai tập thơ anh đã xuất bản (2).
Phan Văn Quang là một nhà thơ thuộc “trường phái phong trần”, vất vả, cực nhọc suốt “một nửa đời luân lạc”. Đúng vậy, cho dù phải trải qua “một nửa đời luân lạc”, anh vẫn muốn thiết tha ôm ghì lấy quãng đời ấy, không chối từ, phủ nhận nó bao giờ. Anh đã viết: “Bạn tôi nói: dù nghèo đói mấy cũng đừng chê đời. Vợ tôi nói: dù nghèo đói cũng đừng xa nhau. Con tôi nói: dù nghèo đói cũng đừng bỏ con. Vì những lẽ đó tôi đã làm thơ và sẽ mãi mãi làm thơ” (3). Ngẫu nhiên trùng hợp, Phan Văn Quang không chỉ yêu đời như một quan niệm của Hermann Hesse, một nhà văn Đức từng đoạt giải Nobel văn chương: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (4). Ở Phan Văn Quang, không có sự đổ vỡ tan hoang, trầm trọng về niềm tin vào cuộc đời, về lí tưởng, lẽ sống, hệ giá trị như Hesse và thế hệ nhà văn Đức, Phương Tây, sau Đệ II Thế chiến. Ở anh, anh cũng như bạn anh, lòng yêu đời trong cơ cực được diễn đạt là “đừng chê đời”, chứ không phải là đừng chán đời (đừng yếm thế) – hai chữ “chán đời”, thường thấy trong thơ sĩ phu Đàng Ngoài ôm mối hận “phù Lê” như Phạm Thái (thời Quang Trung), Cao Bá Quát (thời Tự Đức)… Thơ Phan Văn Quang ngoài ý thức và tâm niệm “đừng chê đời”, còn thể hiện tình nghĩa và trách nhiệm trong hoàn cảnh nghèo đói, mặc dù anh chỉ dám khiêm tốn gói gọn trong chức năng người chồng, người cha, và cao quý hơn thế, là người thơ.
Yêu đời, tình nghĩa và trách nhiệm, cho dẫu cơ cực, phải chăng là những nét chủ đạo trong hai tập thơ Ta ôm một nửa đời luân lạc và Mưa nắng quanh đời?

2

Thật ra, Phan Văn Quang không viết nhiều về những cơ cực, khốn khổ của suốt nửa cuộc đời nổi trôi, chìm đắm. Trong hai tập thơ, chỉ nổi lên một tứ thơ gây cho tôi cảm giác gần như ớn lạnh ở một bài thơ rất ngắn. Tôi nghĩ, phải đau đớn đến quằn quại và ý thức sâu sắc về nỗi đau ấy, Phan Văn Quang mới có thể viết Bong bóng bay, cái đầu đề cứ ngỡ như trong ngần niềm vui thơ dại.

Sân bóng loạn chân người
Tung những đường banh hồ hởi
Chiến thắng thuộc phần ai?
Không khí căng lồng ngực
Vỏ da nào bọc lấy thân tôi?

Còn phút nao lòng
Sân xanh sang màu tím
Người chạm người
Chân ứa máu
Tôi mơ thành bong bóng bay (5).

Đây là bài thơ không chỉ độc đáo và sâu sắc ở tứ thơ, không chỉ khắc ngay vào lòng người nhờ tứ thơ, mà cả ngôn từ cũng rất ấn tượng, mặc dù rất dung dị một cách sinh động. Nửa cuộc đời luân lạc, lăn lóc, như quả bóng trên sân cỏ cuộc đời, bị những cầu thủ của hai đội tranh đoạt để đá bật, đá vòng, sút, lừa, đạp; nếu có dùng đầu thay chân thì cũng là một động tác đánh, húc. Hình ảnh quả bóng cho dù được khắc chạm vào cúp hoặc cúp được đúc theo hình ảnh quả bóng, thì vinh quang chiến thắng cũng thuộc về cầu thủ chứ chẳng thuộc về nó. Quả bóng chỉ là phương tiện của cầu thủ! Và nếu mươi lần “người chạm người, chân ứa máu”, thì hẳn quả bóng còn bầm dập muôn vạn lần hơn thế bởi hàng vạn, hàng vạn cú đá, cú húc. Không có thân phận nào bi thảm như thân phận quả bóng. Phan Văn Quang ý thức được thân phận mình giữa đời một cách bi thảm. Nhưng viết về niềm bi thảm, thơ anh vẫn cứ như không, không có ngôn từ thảm thiết, cay đắng, mà tự thân hình tượng – tứ thơ trong trọn bài thơ thể hiện ra, tạo nên một hiệu quả sâu, mạnh.
Ở câu kết là cả một khát vọng hoá thân, khát vọng đổi đời, khát vọng thoát kiếp, chính xác hơn là khát vọng được trở về với tuổi thơ với ước mơ bay cao giữa trời bát ngát, lồng lộng và khoáng đạt, cho dù chỉ bay bổng vài giờ ngắn ngủi, bong bóng bay cao mơ ước giữa trời kia rồi sẽ xì vỡ, rơi rụng. Chính khát vọng được đào thoát khỏi thân phận, “trốn” về với tuổi thơ, khiến người đọc trào nước mắt.
Bong bóng bay là bài thơ cực kì hàm súc, mộc mà tân thức (modern-style). Tôi cho rằng, đó là tuyệt tác của thơ Phan Văn Quang. Rất tiếc phong cách chủ đạo của thơ anh không phải thuộc thi pháp ấy.
Hình như trước khi đi đến ý thức bi đát về thân phận đó, người thơ Phan Văn Quang phải trải qua những giờ phút, những ngày tháng đối diện với chính mình. Anh không là Narciss, tự say mê bóng mình. Anh không hẳn là Bồ Đề Đạt Ma, chín năm đối diện với bức vách để suy ngẫm, tìm ra bổn lai diện mục. Hẳn tâm thức anh cũng không như một nhà văn nữ xứ Huế Tuý Hồng vốn nổi tiếng về bút pháp táo bạo, có một lần “tôi nhìn tôi trên vách”. Nhưng ai lại không có lần phải nhìn lại chính mình, soi rọi vào tận cõi sâu thẳm nhất của mình, theo cách của mình! Và vấn đề là ở đó: theo cách của riêng mình.
Phan Văn Quang không thuộc vào phân số người trong xã hội Việt Nam trải qua những cơn bão táp cách mạng và bão táp đổi mới trong tâm thức chăng? Tôi không tin vậy. Người thơ này đã từng Hoang mang, trong một khu rừng sâu, bên bờ suối vắng, để đối mặt với chính mình, với cung cách rất Phan Văn Quang:

Bên suối lặng mình soi đáy nước
Trong trời chiều sinh động hai ta
Bóng nhìn ta và ta nhìn lại
Giữa thinh không hai đứa khóc oà (6).

“Trong trời chiều sinh động (? sinh – động? sinh – đọng? sánh, đọng?) hai ta”. Chữ không diễn đạt được gì, chỉ là chữ thừa. Tôi ngẫm nghĩ, có thật hai chữ “sinh động” này đã rất thừa, và làm hỏng một bài thơ tuyệt hay? Nhưng dẫu sao, nhìn trên tổng thể, bài thơ bốn câu Hoang mang rất hay này đã thể hiện được tâm trạng của một người vốn không có ý định chủ động đối diện với chính mình, mà chỉ là lúc tình cờ “soi đáy nước”, bất giác thấy bóng mình nhìn mình, và anh nhìn lại bóng. Người cùng bóng người nhìn nhau, cùng bật oà ra tiếng khóc trong niềm hoang mang. Thật ra, người thơ tự khóc oà về mình đó thôi, sau nhiều tháng năm không một lần nào có dịp soi gương ngắm lại mình, chợt thấy mình già đi, gầy khô, hốc hác hẳn đồng thời đã vong thân (tha hoá), trót mang “khuôn mặt người khác” như một nhân vật Nhật Bản của Kôbô Abê (Kobo Abé) (*), hoặc tha hoá như hình tượng tên lính phát xít Đức “lạc lối về”, Henrich Boll (**) đã khắc hoạ.
Đó phải chăng là lúc Phan Văn Quang nhận ra mình, ở một bài thơ khác (Theo chim về biển), và người thơ rong ruổi cùng cánh chim nào về với cát trắng, sóng biếc, “chim bay về từ những đồi hoang / chiều lên xanh hồn ta một cõi / trong nửa đời còn nặng hoang mang”. Nhưng rốt cuộc, anh vẫn rơi vào tâm trạng bi kịch khác, mặc dù nhận thức rõ về thực trạng của mình hơn: “đánh mất nửa đời không vốn liếng / như tuổi vàng mất biệt tăm hơi / chiều nay trên rừng ta khản giọng / hiu hắt lòng – rượu uống mềm môi” (7).
Hoang mang là trạng thái không thể định hướng, không phân biệt được chân – giả. Nhưng ở Phan Văn Quang, đó không phải là tâm trạng thường trực. Anh tìm cách hoá giải sự khủng hoảng trong tâm thức mình, chỉ bằng một chút thiền, chút vô vi bất nhi bất vi trong một công việc bình thường, giản dị nhất:

Bồng cháu chú chạy khơi khơi
Bé cười làm thẹn biển trời xanh lơ
Ồ! Một điều rất trẻ thơ
Mà ta xuôi ngược bơ phờ tóc râu.
(Trẻ thơ (8))

Nụ cười trẻ thơ hồn nhiên làm xấu hổ cả đất trời hồn nhiên, đối với Phan Văn Quang lúc ấy, là cả một chân lí cuộc sống lớn lao, sâu thẳm mà vô cùng đơn giản.
Cuối cùng, Phan Văn Quang nhận ra một nẻo đường dấn thân, tích cực hơn. Bài thơ có nhan đề được chọn làm tên cho cả tập, Ta ôm một nửa đời luân lạc, tuy vẫn còn hằn nỗi cuồng ca, “thấp thoáng ngoài khơi thuyền ngược sóng / trong này ta cất giọng cười khan”, nhưng đã hi vọng, “có mở được lòng xưa khuất lấp”, cho dù “trăng yên mây kín tự bao giờ”. Ấm lòng thay, khi anh tìm ra hạnh phúc ngỡ đã mất:

Nhớ thuở xa người – xa rất mực
Chớm xuân tin trổ ngọn bên đồi
Áo xưa trăng loãng ngời như lụa
Thấy lòng phai giữa bóng trăng phơi

Đôi lần ghé thăm người em gái
Thiếu nữ thương ta, ta rất thương
Hạnh phúc nào xanh lòng luân lạc
Khi trăng về ngủ muộn cuối đường (9).

Ngay cả những lúc cơ khổ nhất, anh vẫn có một ý thức trách nhiệm, và cũng may mắn thay, lại là trách nhiệm trong tình yêu đương, hạnh phúc. Kỷ niệm rừng sáng bừng một trời tươi sáng:

… Sau ba ngày mưa dầm
hôm nay trời thơm nắng
Anh lên rừng hái củi
cùng tình yêu em rực rỡ trong lòng
Bài hát hôm qua ngân dài núi đồi
mênh mông
Ồ lá và hoa thi nhau hoà với chim với suối
Mo cơm, túi nước ngất ngưỡng trên vai
theo chân anh bước đuổi… (10)

Bài thơ viết dưới chân thành cổ cũng thể hiện điều đó với tất cả sự chắt chiu, trân trọng, trìu mến:

Thoang thoảng hương đời thơm tóc em mùi cốm
Thiết thực vô cùng anh làm việc hăng say.

Ngôi trường thơ ấu, chừ ngói đụn rừng lau
Anh mở lòng theo mười ngón tay mau
Ở nơi này cũng còn ít nhiều viên gạch tốt
Mồ hôi thấm hai lần áo trong ngày nắng đốt
Anh nghĩ xây dựng quê hương
cũng từ những điều nhỏ nhặt vô cùng
Vài viên ngói cũ sẽ đậm màu ngôi trường mới
Trong bữa cơm chiều nay
Có mẹ già và em trai còn đi học
Anh miên man nói chuyện ngày mai
Chắc như bắp, như một cộng một là hai
Gạo sẽ có, lòng sẽ vui, bàn tay này cày cấy
Từng giọt mồ hôi từng hạt giống tương lai (11).

Tôi không rõ những nỗi đau trong nửa đời luân lạc có lần suýt quay về làm quằn quại lòng anh, lần ấy xảy ra vào thời điểm nào. Lúc anh đã hạnh phúc? Lúc anh còn cơ khổ? Chắc chắn ấy phải là những tháng ngày cho dù có hạnh phúc nhưng chưa thật ổn định trong công việc làm ăn kiếm sống. Bấy giờ, Phan Văn Quang vẫn còn lặn lội giữa rừng hoang nước độc, tìm miếng ăn cho mình, cho con, dẫu biết “ăn của rừng, rưng nước mắt”. Đây là hình ảnh một toán “ngậm ngải tìm trầm” hay “đãi cát tìm vàng” một thuở khó khăn chung:

“Trải chiếu giữa sàn / Mưa chém vào phên nứa / Chai rượu đứng nghiêm chào những người bạn cũ / Đĩa mồi mấy con mực nằm nghiêng / Xưa như trái đất vẫn còn thằng áo rách / Manh chiếu lủng tròn thành chiếc mâm / Lúc nhúc những chiếc li cụng vào đêm sâu / Vỡ mặt – tháng năm dài / Niềm vui vô tình lấp sau liếp cửa / Sợ chạm phải nỗi đau xưa… // Ngoài hiên, mưa / Chiếc dép, chiếc giày ngả nghiêng bên vệ cỏ / Ngủ say”
(Tĩnh vật sống (12)).

Dăm bảy năm nay, Phan Văn Quang cũng thôi làm công việc phát hành ở toà soạn tạp chí Cửa Việt, anh cùng vợ mở quán cháo bột cá tràu (cháo bánh canh cá lóc) ngay tại nhà ở thị xã Đông Hà. Có lẽ thời đoạn này là thật sự ổn định, ổn định nhất trong đời anh. Tuy vậy, là một nhà thơ, anh không thể ngủ vùi trong sự yên ổn đó – sự yên ổn có thời Chế Lan Viên đã phê phán, “một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”.
Ở tập thơ thứ hai, Mưa nắng quanh đời, có bài vẫn chứa chất một nỗi suy tư, thao thức và trăn trở, nhất là niềm tự vấn của người cầm bút, vốn được tôn vinh là dám mang thiên chức chứng nhân của thời đại. Đó là nỗi niềm ở một ngày mùa xuân, khi chợt nhớ thi sĩ Phùng Quán chăng?

“Vắt cạn kiệt bã cơm / từ hạt gạo tháng mười / Chắt mạch nước đỏ bùn phèn váng vất / Khơi chút lửa / chuốc men nồng lên mắt / Trước ngày xuân ngồi lại tự vấn mình // Rượu đầu môi sẽ là phút lặng im / Thiếu vắng quá tiếng chim đầu núi / Đêm sâu thẳm níu vì sao chợt tắt / Ngã lòng đời, chạm mặt những vần thơ // Uống rượu làng với chân dung người xưa / Tâm đựng phải nỗi lòng cay cực / Xin cạn chén phơi bày lòng chân thật / Hẹn một ngày / tưới rượu xuống Hồ Tây”.
(Uống rượu với chân dung Phùng Quán (13))

Nhân Ngày Thương binh – liệt sĩ 27. 7. vào năm 1997, Phan Văn Quang có dịp ra Hà Nội, anh viết về một liệt sĩ của thi ca, một đời anh kính mến, ngưỡng vọng:

Ngắm sóng Hồ Tây, Hà Nội phố
Rưng lòng tưởng nhớ một nhà thơ.
(Lang thang chiều Hà Nội (14))

Tââm hồn thơ Phan Văn Quang không “chê đời”, như bạn anh nói và anh xem như tâm nguyện của chính anh, cho dù phần số anh vất vả, long đong, cơ cực, chỉ mới thư thả trong dăm bảy năm gần đây về cơm áo. Tôi không nghĩ Phan Văn Quang sống theo triết thuyết “an bài định phận”, mà anh cố sống “an bần lạc đạo”, vì cái chí của nhà thơ đâu phải là miếng cơm manh áo, cho dù một thi sĩ tiền chiến đã viết, “cơm áo không đùa với khách thơ”, và ở đây, “lạc đạo” là vui với “Thi đạo” . Phùng Quán, thi ca và Chòi Ngắm sóng của ông không phải là biểu tượng về một liệt sĩ của thơ ca (dám sống vì thơ, dám chết cho thơ, chung quy chính là sống chết vì nhân dân, đất nước), trong thơ Phan Văn Quang đó sao!
Nhưng giữa lòng kính yêu, ngưỡng vọng Phùng Quán và dám sống chết như Phùng Quán là cả một khoảng cách rất rộng. Điều đó, hầu như đối với ai cũng vậy. Có phải vậy không, anh Phan Văn Quang thân mến?

3

Nhà thơ Phan Văn Quang của Quảng Trị gió nóng, xương rồng, cát trắng không chỉ thế. Ở anh, còn phần tâm hồn thơ của nỗi ngậm ngùi, thương nhớ kỉ niệm, của những nét đẹp buồn. Có một chùm thơ anh in ở cả hai tập! Phải chăng đó là những bài anh yêu nhất, tuy có bài chưa hẳn là hay nhất?
Quả thật, Tháng sáu Pleiku là một bài thơ đẹp, đẹp và buồn, cái buồn rất đẹp. Đó là một phần trong tuổi trẻ luân lạc Phan Văn Quang.

“Ở Pleiku trời như sương khói / Áo màu xanh, xanh lá ven đường / Ta cũng thấy má người au đỏ / Còn tóc chừng ngai ngai mùi hương / / Nhà em đầu, nhà anh cuối phố / Mà mấy khi đều đặn tìm nhau / Kìa nhà em bông chi ngoài ngõ? / Ngập ngừng lòng quên bỏ lại sau // Em yên ổn quanh đời che chở / Khoảng vườn xanh, cửa thép im lìm / Một cây thông già lêu nghêu đứng / Chiều nay thêm một bóng lặng thinh // Ở Pleiku buồn khi đêm xuống / Nghe rất thèm một mái nhà êm / Nghĩ rằng ở đây hoài cũng lạnh / Ta về buồn ấp ủ hơi đêm // Tháng sáu Pleiku đầy hơi nước / Ta lang thang như kẻ cùng đường / Mới biết ta có thời tạo nghiệp / Ở Pleiku – tình tan như sương” (15).

Đọc thơ Phan Văn Quang, Tháng sáu Pleiku, tôi hiểu thêm vẻ đẹp của nỗi buồn trong veo, tôi chợt ngộ ra một điều giản dị mà sâu sắc nhất của lẽ đời: Trong hoàn cảnh nào đi nữa, lòng người vẫn còn có thể phát hiện, bắt gặp, trải nghiệm cái đẹp buồn, cái buồn đẹp, có khả năng làm thăng hoa trái tim người, vốn tiềm tàng trong cuộc sống, ngay cả trong cảnh nổi trôi, chìm đắm, cơ cực và bị đẩy vào tình trạng “đau đớn đến quằn quại”, nói như Hermann Hesse, nhà văn Đức.
Ngậm ngùi rời Huế cũng in hai lần ở hai tập. Bất kì ai cũng không thể không bâng khuâng, rưng rưng cảm động khi đọc, như thể đọc lại kỉ niệm của chính mình:

“Ở đây ta buồn và mây thấp / Như sân ga lặng lẽ mưa về / Nặng tình – Huế cho người đưa tiễn / Nặng ân – ta có hẹn quay về // Ra đi răng nghe lòng nằng nặng / Trong mắt em ủ kín một đời / Còi hụ, tàu lên đường tháng chạp / Huế thì mưa bát ngát đất trời // Nhìn em qua chiều không rõ mặt / Làm răng ta khỏi nhớ trời mưa / Có em đứng buồn như cây rũ / Nghe trong ta tình đã giao mùa // Huế ơi qua được bao mùa bướm / Bướm bay loáng thoáng những con đường / Vãng (***) đường tan trường nhiều con gái / Vãng hồn em trong Huế tang thương // Ra đi còn nhớ đò Thừa Phủ / Nhớ sông Hương mưa trắng một dòng / Gửi lại em người tình thơ dại / Trọn một đời hoa bướm thong dong” (16).

Hoá ra, thơ với những suy nghĩ, cảm xúc đẹp dung dị, với một hệ ngôn từ, nhạc điệu đẹp đơn sơ, lại thấm thía vào lòng đến thế.
Đúng ra, nhìn trên tổng thể, thơ Phan Văn Quang thiên về khuynh hướng thẩm mĩ thi ca này (chứ không phải khuynh hướng thẩm mĩ thi ca “đời”, “phong trần” – gió bụi), tuy có nhiều bài chưa đạt như thế hoặc ở những cung bậc khác. Chưa đạt như thế là hạn chế, nhưng ở những cung bậc khác lại là sự đa dạng, phong phú của một phong cách thơ.
Kể thêm về khuynh hướng này, Phan Văn Quang còn có nhiều bài khá hay. Trong đó, có hai bài thật sự có tứ: “Con còng bướng bỉnh của tôi ơi!” (17), “Cõi riêng” (18).

4

Một cách đương nhiên, thơ Phan Văn Quang đã làm phong phú thêm nền thi ca Quảng Trị vốn chưa phải là đã có bề dày, tuy có những đỉnh cao vòi vọi (thơ Chế Lan Viên chẳng hạn). Trong công cuộc Đổi mới gần hai thập niên qua, cũng như tại các tỉnh khác trong nước, ở Quảng Trị đã xuất hiện hoặc xuất hiện lại những nhà thơ thuộc về nhiều hoàn cảnh, số phận khác nhau. Nhờ vậy, nền thi ca Quảng Trị và nói chung, thi ca Việt Nam, thật sự thoát khỏi “nền văn học quan phương” đơn thuần, hoặc như ai đó đã mỉa mai phát biểu: thoát khỏi “nền văn học cán bộ” đơn điệu, duy nhất một “chuẩn mực”. Và cũng nhờ vậy, thơ dần dần tiến đến một chân lí vốn được đúc kết, tôn vinh tự bao giờ trong sách giáo khoa và trong xã hội: Văn chương nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng, là tấm gương phản ánh trung thực xã hội, thời đại, theo cách của nó. Thơ Phan Văn Quang phản ánh được những “góc nhân dân” nhưng thật ra rất tiêu biểu, rất điển hình, bên cạnh những gì tiêu biểu, điển hình khác, có thể gọi là các “góc chính thống”, của Quảng Trị và của cả nước ta.
Đọc thơ Phan Văn Quang, tôi cảm nhận được một tâm hồn thơ, hình dung được một người thơ chỉ có thể xuất hiện ở thời đoạn lịch sử trước và sau ngày sông Bến Hải, cầu Hiền Lương, sông và cầu Thạch Hãn bị chia cắt, lại được nối liền, cho đến hai thập niên Đổi mới. Thiếu đi một nhà thơ Phan Văn Quang là cả một thiếu sót không gì bù đắp được.
Có một Phan Văn Quang như thế trong thơ, và rất nhiều Phan Văn Quang như thế trong đời. Thơ Phan Văn Quang đã nói lên bao tâm trạng, nỗi niềm, thay cho rất nhiều Phan Văn Quang thầm lặng khác. Nếu không có Đổi mới (công cuộc Đổi mới cần phát huy mặt tích cực), thơ ca sẽ nghèo nàn, đơn điệu biết bao, và “thơ ca như một tấm gương phản ánh trung thực xã hội, thời đại” cũng khiếm khuyết biết bao!
Nhà văn và cũng là nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về Phan Văn Quang: “Thi sĩ là người duy nhất trên đời biết ‘cảm ơn sương mù’. Tôi thì cảm ơn Phan Văn Quang, đã lưu ý về những gì tôi đã có, đã hờ hững quên, và bây giờ tìm thấy lại” (19). Tôi thấy cần viết thêm về anh như đã viết, bởi “sương mù” không phải là tất cả Phan Văn Quang. Qua thơ anh, tôi thấy sáng lên chất “đời”, chất “sử”, một thứ ghi chép xã hội học, sử học sống động về một phân số nhân dân – xã hội, về một địa phương đất nước – thời đại, mà chỉ có thơ ca mới có thể phản ánh được, theo cách của nó (bao gồm cả yếu tố chủ quan, cá nhân, cảm tính). Đó là xã hội, lịch sử qua tâm trạng thi ca của một con người chỉ hiện hữu ở một vùng đất, một thời đại nhất định. Nói như thế, không có nghĩa thơ Phan Văn Quang là thơ ca kí sự! Không, Phan Văn Quang là nhà thơ Quảng Trị trữ tình đích thực, đúng nghĩa.
Tôi cảm ơn Quảng Trị đã có một Phan Văn Quang. Đó là một Phan Văn Quang học trường làng, trường tỉnh; bị bắt làm lính ngụy, được giũ bỏ áo lính ngụy; trở về cày ruộng, phát rẫy, tìm trầm, đãi vàng; sau nửa đời trôi nổi, chìm đắm, cơ khổ, lam lũ, tất bật, anh đã đảm trách việc phát hành tạp chí văn nghệ cách mạng, rồi bán cháo bột cá tràu ở nhà, được bầu làm phân hội trưởng Phân hội Văn học thuộc Hội Văn nghệ Quảng Trị. Đồng thời, đó cũng là một Phan Văn Quang đau đớn, khóc cười, tỏ tình, yêu đương, hạnh phúc, uống rượu, suy tư, thao thức, hi vọng… theo cách của riêng anh và bạn bè anh (trong đó có tôi). Một Phan Văn Quang ấy với bao nhiêu cảnh huống, tâm trạng khác nữa! Như mọi nhà thơ khác, tất cả những gì Phan Văn Quang từng nếm trải bằng chính bản thân, đã và sẽ được trái tim anh tinh lọc để trở thành thơ ca. Mai sau, sẽ có những lớp người hình dung lại: Có một nhà thơ thuộc “trường phái phong trần”, tốt nghiệp “đại học cuộc đời” như Macxim Gorki (20) như thế, một phân số thế hệ như thế, một thời đại ở một vùng đất Quảng Trị quê nhà như thế với những tập thơ như thế.

TP. HCM., khởi viết từ 14 g ngày 29. 9. 2004;
hoàn tất lúc 16 giờ 54 phút, ngày 30. 9. 2004
(17. 8. G. thân HB4);
sửa chữa xong lúc 09 giờ 35 phút ngày 01. 10. HB4.
TRẦN XUÂN AN


(1) Phan Văn Quang, Ta ôm một nửa đời luân lạc (TÔMNĐLL.), tập thơ đầu tay, Hoàng Phủ ngọc Tường đề tựa, Hội VHNT. Quảng Trị xuất bản, 1993, tr. 3 – 4.
(2) Phan Văn Quang, Mưa nắng quanh đời (MNQĐ.), tập thơ thứ hai, Nxb. Văn hoá dân tộc, 1997.
(3) Nhiều tác giả, Còn đây thương nhớ, tuyển tập thơ, Hội Văn học – nghệ thuật Quảng Trị xuất bản, 1993, tr. 64.
(4) Hermann Hesse (1877 – 1962), Câu chuyện dòng sông, giải Nobel 1946, bản dịch Phùng Khánh & Phùng Thăng, Nxb. Lá Bối & Nxb. An Tiêm, bản in lần thứ 6, 1974, tr. 5. Theo lời giới thiệu đầu sách (ở một trong sáu lần xuất bản), Câu chuyện dòng sông đã trở thành Thánh Kinh mới của mấy thế hệ tuổi trẻ Tây Đức và Phương Tây, sau Đệ II Thế chiến, mặc dù nội dung cuốn tiểu thuyết này là sự tìm đến giá trị giáo thuyết Phương Đông (hình tượng nhân vật trung tâm là Tất Đạt [Siddhartha], một chàng trai trẻ từ bỏ Bà La Môn, quyết tâm tu khổ hạnh, rồi trở về với đời sống thương gia, tìm chân lí trong việc làm giàu, đánh bạc, chung sống với một kĩ nữ, sinh con, và để qua đó, nhằm học tập ở thực tế bằng chính sự trải nghiệm của bản thân về hạnh phúc – khổ đau – dục vọng; cuối cùng là sự giác ngộ Đạo Thiền – Lão Trang bên một bờ sông vắng). Việc xem Câu chuyện dòng sông là Thánh Kinh mới không phải là hiện tượng nhất thời của tuổi trẻ Tây Đức và Phương Tây sau Chiến tranh thế giới lần II do sự đổ vỡ đức tin Thiên Chúa giáo…
(5) MNQĐ., sđd., tr. 46.
(6) TÔMNĐLL., sđd., tr. 16.
(*) Kôbô Abê (Kobo Abé), Khuôn mặt người khác, Phạm Mạnh Hùng dịch, Nxb. Đà Nẵng – Nxb. Thanh Hoá, 1986.
(**) Henrich Boll (tác giả giải Nobel 1972), Lạc lối về, Huỳnh Phan Anh dịch, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM. tái bản, 1997.
(7) TÔMNĐLL., sđd., tr. 23.
(8) TÔMNĐLL., sđd., tr. 11.
(9) TÔMNĐLL., sđd., tr. 21 - 22.
(10) MNQĐ., sđd., tr. 37 - 38.
(11) MNQĐ., sđd., tr. 35 - 36.
(12) MNQĐ., sđd., tr. 23.
(13) MNQĐ., sđd., tr. 7.
(14) MNQĐ., sđd., tr. 52 - 53.
(15) MNQĐ., sđd., tr. 28 - 29.
(***) “Vãng đường”, “vãng hồn”. Đây là chữ “vãng” trong từ ghép thường dùng “lai vãng”, “khách vãng lai”, “lai vãng đường”, “vãng sanh đường”. “Vãng” là đến thăm viếng nơi nào đó, khác với “vãn” trong từ ghép “vãn cảnh”, có nghĩa là đến ngắm cảnh, mặc dù người ta vẫn nói, “vãng cảnh chùa”. Ở bài thơ trên, “vãng đường” chính là “lai vãng đường” (nhà thăm viếng ở một doanh trại…) hay “vãng sanh đường” (nhà phúng điếu còn đặt quan tài)? Và “vãng hồn”, có nghĩa là thăm viếng hương hồn người chết; câu thơ phải là: vãng hồn, em trong Huế đau thương? Đề nghị tác giả Phan Văn Quang đính chính lỗi in ấn.
(16) MNQĐ., sđd., tr. 11 - 12.
(17) MNQĐ., sđd., tr. 22.
(18) MNQĐ., sđd., tr. 34.
(19) TÔMNĐLL., sđd., tr. 4.
(20) Xem: Lời tựa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, TÔMNĐLL., sđd., tr. 3.

Đã gửi:
Võ Văn Luyến (01. 10. 2004) để nhờ chuyển đến:
1. Tạp chí Cửa Việt
2. Anh Phan Văn Quang.


_______________________

Bài thứ năm

ĐỌC THƠ NGUYỄN TẤN SĨ

1

Không phải mươi ngày, vài tháng, thấm thoắt đã ba mươi bốn năm, kể từ ngày tôi và Nguyễn Tấn Sĩ cùng nhau học chung một lớp (9. 1970), thân nhau từ thuở đó đến bây giờ (*a). Ngoảnh lại, ngẫm nghĩ với sự bình tâm, khách quan, vẫn thấy trong số những bạn thơ cùng lứa ở khắp nơi, Nguyễn Tấn Sĩ là một trong vài nhà thơ có phong cách rất riêng về ngôn từ thơ, mặc dù ngôn từ thơ là một mặt cực kì quan trọng, nhưng chưa phải là tất cả đối với thi ca.
Bản thân từ phong cách không là gì cả, nhưng khi nó được sử dụng như một thuật ngữ văn học, người viết nào cũng không thể không cần cân nhắc, nhất là khi thuật ngữ ấy có kèm theo một vài định ngữ nào đó.
Tuy vậy, không còn phân vân, nghi ngại gì nữa vào sự thẩm định của mình, tôi có thể cầm lên hai tập thơ Nguyễn Tấn Sĩ đã xuất bản (1) để nói thật nghiêm túc với mọi người điều đó. Thật ra, cũng chẳng cần tôi khẳng định ngay điều này khi bắt đầu bài viết về thơ anh. Thơ Nguyễn Tấn Sĩ từ lâu đã tự trình bày ra trước người đọc bằng giấy trắng mực đen; và ai cũng biết rằng, người đọc uyên bác, có tài thẩm thơ và hoàn toàn vô tư trên đời này không phải là hiếm hoi.
Vâng, phong cách thơ Nguyễn Tấn Sĩ là rất riêng, xét về khía cạnh ngôn từ thơ. Điều đó, có thể nhận ra một cách dễ dàng khi đọc một hoặc cả hai tập thơ của anh. Ngôn từ thơ Nguyễn Tấn Sĩ hầu như khởi xuất từ tố chất bẩm sinh của riêng anh, lại được anh khai phá, sáng tạo. Phong cách ngôn từ thơ ấy định hình từ lâu, và vì thế, có thể nói là nhất quán.
Mặt trời và cơn khát (1991), Lời hát khẽ (2003) được Nguyễn Tấn Sĩ xuất bản ở hai thời điểm cách nhau đến 12 năm. Có chùm thơ anh viết từ những ngày còn cầm súng ở chiến trường Campuchia và về những ngày giỗ đồng đội đã hi sinh ở đó, vốn đã được in ở tập Mặt trời và cơn khát, lại được sửa chữa, bổ sung, in lại ở tập Lời hát khẽ. Ngoại trừ chùm thơ ấy, những bài thơ giữ tỉ lệ cao hơn ở hai tập hầu hết là thơ tình yêu đôi lứa và cảm xúc về những gì trong anh, quanh cuộc sống anh.
Mặt trời và cơn khát, ngay tên của tập thơ đầu tay, ta có thể thấy một Nguyễn Tấn Sĩ rất trẻ trung với những khát vọng cháy bỏng giữa một không gian, thời gian tràn ngập ánh mặt trời. Ở tập thứ hai, dày dặn hơn, số lượng bài thơ nhiều hơn, có cái tên rất trầm tĩnh của một nhà thơ tự nhận ra mình không còn trai tráng nữa, mặc dù vẫn còn chan chứa tình yêu cuộc sống: Lời hát khẽ.

2

Tôi vẫn còn nhớ những câu thơ đăng báo của Nguyễn Tấn Sĩ hồi anh còn học những năm cuối của bậc trung học:

sáng hôm nay trên tường vôi hạnh phúc
chút lá xanh đã mọc tự bao giờ
ta nghe lòng mình vui hơn thuở trước
một thuở, ô hay, quá dại khờ! (*b)

Đó là những câu thơ học làm người lớn của một người thơ mười bảy tuổi! Nếu lúc này, anh in lại, không đề năm sáng tác cuối bài thơ, người đọc sẽ ngỡ Nguyễn Tấn Sĩ mới viết. Nhưng điều tôi có thể cảm nhận được, là bốn câu thơ ấy như một dấu hiệu báo trước, đời thơ Nguyễn Tấn Sĩ không thiếu vắng hạnh phúc riêng tư. Không thiếu vắng hạnh phúc riêng tư, nhưng Nguyễn Tấn Sĩ vẫn chưa bao giờ nguôi cơn khát về hạnh phúc chung, về một tình yêu đương nào đó chăng?
Trong cả hai tập thơ, đặc biệt về mật độ, tần số xuất hiện ở tập đầu tay, hai chữ “cơn khát” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần ở nhiều bài khác nhau với nhiều ngữ cảnh, cung bậc không phải là một.

“anh đã sống như những bài thơ ấy / thắp cho em ngọn lửa trái tim mình / để em mãi nghìn năm còn bốc cháy / thơ không tan, ngọn lửa ấy không tàn / ôi suốt đời da diết gọi mênh mang / em mãi mãi trong lòng anh cơn khát / con lạc đà đi qua sa mạc / đi qua phận mình, giọt nước hoá đời em // cháy qua ngày cháy qua đêm / qua tháng năm vô tận / bao người đi trong cuộc đời hữu hạn / đăm đắm nhìn ngọn lửa thắp cho em / cháy qua ngày cháy qua đêm / qua năm tháng hỡi người xuyên sa mạc / anh với mặt trời và cơn khát / anh đi suốt đời hừng hực lửa tim em // cháy qua ngày cháy qua đêm…”
(Mặt trời và cơn khát (2))

Thoạt đầu, tôi nghĩ “cơn khát” ấy không thể là gì khác, mà chỉ có thể là khát vọng tình yêu đương, một tình yêu đương tuyệt vời nhất, bao giờ cũng ở phía chân trời, càng đi càng không bao giờ đến. Tôi cứ phân vân mãi, và cuối cùng nhận ra nghiệm số sờ sờ ngay trước mắt. Đó chỉ là tình yêu thơ ca, khát vọng về một lí tưởng thẩm mĩ của chính Nguyễn Tấn Sĩ. Với cách diễn đạt của mình, anh đã gọi cái đẹp tuyệt đối ấy là “em” – nàng thơ yêu dấu suốt đời anh khát vọng, mãi hoài tìm gặp. Nàng thơ của Nguyễn Tấn Sĩ huyền ảo, phi lí nhưng lại rất thật đối với anh: Nàng thơ sống trong lửa cháy, cháy không nguôi, cháy không bao giờ tắt, “cháy qua ngày cháy qua đêm”, cháy cho đến vô tận. Tất nhiên nàng thơ ấy chỉ có thể sống trong những ngọn lửa từ trái tim anh, thứ lửa mầu nhiệm mà chỉ con người mới có thể sáng tạo ra, ấp ủ trong lồng ngực mình. Tôi liên tưởng đến vũ điệu có hình tượng nàng tiên múa lửa, thuở trung học tôi từng xem trên phim ảnh hay từ một bức tranh trong phòng triển lãm nào đó.
Với hình tượng biểu đạt ấy, thơ anh trong khát vọng anh là vĩnh cửu, và cái đẹp vĩnh cửu ấy sẽ không chỉ là khát vọng của riêng anh, mà của mọi kiếp người vốn ngắn ngủi, vốn muôn thuở cô đơn giữa sa-mạc-cuộc-đời: “bao người đi trong cuộc đời hữu hạn / đăm đắm nhìn ngọn lửa thắp cho em / cháy qua ngày cháy qua đêm / qua năm tháng hỡi người xuyên sa mạc”.
Và hình ảnh “mặt trời” kia nữa! Tất cả mọi từ ngữ, ẩn dụ đều có ngữ cảnh cụ thể của nó. Nhưng loại trừ đi nhiều trường hợp, hình ảnh “mặt trời” với số lượng không ít trong thơ Nguyễn Tấn Sĩ vẫn là ẩn dụ về một tất yếu và thiết yếu của cuộc sống: “thiếu mặt trời mấy ai còn thấy bóng”! (3). Mặt trời, nhất là mặt trời giữa sa-mạc-cuộc-đời, là nguồn sáng không thể thiếu cho sự sống, đồng thời là nhân tố làm tăng nhanh cấp độ của “cơn khát” vốn đã không bao giờ dịu bớt trong Nguyễn Tấn Sĩ.
Phải chăng Nguyễn Tấn Sĩ là nhà thơ luôn luôn cháy bỏng cơn khát dưới nguồn sáng thi ca về cái đẹp thi ca?
Tuy nhiên, có khi mặt trời đồng nhất với em (nàng thơ, cái đẹp thi ca): “anh giữ lửa để mặt trời em cháy” (4), và cũng có khi, nàng thơ không chỉ là giọt nước giữa sa-mạc-cuộc-đời, mà là cơn mưa Mùa hạ (5): “mặt đất anh cồn cào cơn khát / cơn mưa em còn xa// em giễu cợt / thách đố loài ve phổ nhạc / thách đố tán cây lửa rớt / mỗi ngày đi qua chỉ thấy mặt trời cười”. Nụ cười thách đố tinh quái hay quái ác nữa, của chính mặt trời! Vì thế, đối với người thơ, cho dù anh cùng mặt đất khô khốc, anh đồng nhất với mặt đất khô khốc, tất cả, kể cả cơn mưa đã đồng nhất với em (nàng thơ, cái đẹp thơ ca), cũng chỉ là hư ảo, hoài vọng trong cổ tích: “em không có thật trên đời / mùa hạ ấy anh và mặt đất / tìm cơn mưa đã mất / sáng bóng đổ bên này, chiều bóng ngả bên kia…” (5). Những ẩn dụ ấy còn biến hoá: “gió khát nước qua sông làm sóng vỗ / cho đôi bờ thương nhớ chẳng hề nguôi // ẩn trong anh có nụ cười / phượng mặt trời tươi rói / em ở lại…” (6). Càng biến ảo hơn, các ẩn dụ có thể nói là cùng hệ thống ấy, ở một bài khác, Mùa đông (7): “những ngọn lửa ngỗ nghịch / trốn đâu rồi để rét cho em […] // có phải em là nơi trời đất gởi / anh và giá buốt mùa đông / xoáy thành tâm bão”. Ấy là khi người thơ song hành với mùa mưa rét, gió bão, lửa trong trái tim anh không đủ sức để giúp nàng thơ sưởi hồng, hong ấm.
Một điều khá lạ lùng nữa, khi vào chiều ba mươi Tết (hay là chiều sinh nhật?), năm anh vào tuổi 30, khoảnh khắc của hoài niệm quá khứ trước phút giao thừa, đón chào năm mới tương lai, Nguyễn Tấn Sĩ chân thành nhận ra suốt cả cuộc đời mình, từ bé đến bấy giờ, lúc đã 30 tuổi, anh cũng chỉ là hư ảo, không thật, chưa hề hiện hữu:

chiều ba mươi
rót mươi giọt nắng thầm
tôi uống cạn say một đời không thật
tôi uống cả những gì đã mất
chiều ba mươi
tôi uống chiều ba mươi.
(Chiều ba mươi tuổi (8))

Thì ra, thế giới thơ của Nguyễn Tấn Sĩ, chỉ là thế giới hư ảo, kể cả người thơ – cái tôi trữ tình trong thơ anh!
Có phải như vậy không? Không, không hoàn toàn như vậy!
Bài thơ có tên Mặt trời và cơn khát, được Nguyễn Tấn Sĩ chọn làm tên chung cho cả tập, chắc hẳn đó chính là bài thơ đề từ. Tại sao trong bài đó, ở câu mở đầu, Nguyễn Tấn Sĩ viết: “anh đã sống như những bài thơ ấy”? Nhưng cũng phải đặt vấn đề ở điểm mâu thuẫn này, khi anh lại viết: “tôi uống cạn say một đời không thật / tôi uống cả những gì đã mất”. Những gì đã mất cũng thuộc về “một đời không thật” ấy!
Phải chăng, một câu này (sđd., tr. 9) là tất cả chân thành, một câu kia (sđd., tr. 22) chỉ là lời giận dỗi với chính mình, muốn phủ nhận mình?
Tôi cũng không thể tin được, nếu các nhà thơ bảo rằng suốt cuộc đời sáng tác thi ca của họ, họ chưa bao giờ viết một bài thơ trữ tình nào đúng như sự thật trong đời sống đến mức có thể gọi là tái hiện y nguyên theo kiểu chụp ảnh, quay phim, chứ không phải tái tạo (tinh lọc, nhào nặn lại sự thật). Tôi biết rằng, trong cuộc sống của các nhà thơ nói chung, hay của bất kì ai, đều có những quãng thời gian, không gian (những hoàn cảnh cảm xúc, sáng tác) và con người (chủ thể, khách thể sáng tác) vốn đã rất nên thơ (không hẳn là thơ mộng), chứa đựng sẵn những tứ thơ sâu sắc; và nhà thơ may mắn phát hiện được, nhờ vốn liếng thi nghiệp, tài năng sẵn có, rồi chỉ việc viết ra trên trang giấy, như thể xuất thần ngay tức thì hay ở lúc nào đó về sau. Như vậy, phải chăng khi Nguyễn Tấn Sĩ bảo rằng, “tôi uống cạn say một đời không thật / tôi uống cả những gì đã mất”, ta cần phải hiểu anh: Nguyễn Tấn Sĩ muốn giấu mình, đánh lẫn những bài thơ rất thật kiểu tái hiện vào những bài hư cấu kiểu tái tạo, cho rằng tất cả đều là hư cấu kiểu tái tạo. Bởi lẽ, nhà thơ cũng có vợ, mà trên đời này, người vợ nào chẳng ghen tuông hoặc buồn đau vì những thoáng “ngoại tình”, cho dù chỉ “ngoại tình” trong tâm tưởng của chồng! Thậm chí, có nhiều người vợ ghen tuông hoặc buồn đau về kỉ niệm riêng của chồng trước ngày cưới! Đó là về thơ tình, còn thơ có tính xã hội, tính thế sự cũng thế, chúng phải chịu sự soi mói bên cạnh sự thưởng ngoạn của nhiều thành phần công chúng khác nhau về sự “nhạy cảm”. Cho nên, để tự bảo vệ bản thân trong yên ổn, nhà thơ đành xem tất cả thơ mình là hư cấu.
Hoặc là, phải chăng chúng ta cần lí giải vấn đề, căn cứ vào kinh nghiệm nội quan tâm lí bình thường và căn cứ vào tâm lí học sáng tạo văn chương nghệ thuật? Sống, đối với nhà thơ, ấy là lúc nhà thơ thật nhất với tâm thức mình trong khi sáng tác, cho dù thơ ca vốn được các nhà lí luận văn học trên thế giới nhất trí xếp vào loại hình hư cấu (fiction). Chính với thế giới hình tượng hư cấu (trong điều kiện có tự do sáng tác ở gia đình, ở xã hội), nhà thơ mới có thể sống thật với tất cả tâm thức mình. Khi sáng tác, nhà thơ khóc thật, cười thật, cùng bao cảm xúc, trạng thái tình cảm rất thật khác nữa, trước hình tượng, ngôn từ của chính mình, đó đâu phải là chuyện lạ. Mặt khác, thế giới hình tượng – cảm xúc – tư tưởng trong thơ không phải hoàn toàn là hiện thực y nguyên như nó diễn ra, tồn tại, mà chính là hiện thực được đãi lọc, kết tinh. Ai bảo Nguyễn Gia Thiều và Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần Côn và Chinh phụ ngâm khúc (qua bản dịch Phan Huy Ích – Đoàn Thị Điểm) là không thật? Ai bảo Nhớ rừng của Thế Lữ là không thật? Có điều, khái niệm chân thật ở văn chương phải được hiểu một cách biện chứng giữa chủ thể sáng tạo và đối tượng sáng tạo, trên cơ sở kinh nghiệm nội quan tâm lí của mỗi người và tâm lí học sáng tạo văn chương nghệ thuật.
Ngoài ra, nhà thơ trước hết là một con người có tính xã hội, vốn được thừa hưởng một nền văn hoá, giáo dục nhất định, do đó, nhà thơ phải tự giác “kiểm duyệt” chính tác phẩm của mình, ngay trong khi viết. Và, thử bàn cho hết lẽ, nếu nhà thơ nào đó cứ trắng trợn phơi bày phần bản năng thấp hèn, thú tính của chính mình (cũng là hằng số “con” trong mọi “con người”) ra trước thiên hạ, hẳn nhà thơ chỉ biết chân, mà không biết gì đến thiện và mĩ, trong khi chân – thiện – mĩ phải gắn bó hữu cơ thành một chỉnh thể nghệ thuật. Cái điểm trực tự động, có tính phản xạ của thiên lương có chức năng “kiểm duyệt” ấy (*c) (phần được giáo hoá bằng văn hoá, giáo dục) cũng thuộc về bản chất chân thật đến mức hồn nhiên nhi nhiên của nhà thơ.
Về đối tượng (khách thể) sáng tạo, ở tập thơ thứ hai của Nguyễn Tấn Sĩ, Lời hát khẽ, anh còn có một bài tứ tuyệt lục bát rất hay, vô hình trung thể hiện điều đó:

“Tìm vầng trăng / mọc chân cầu / Để vầng trăng / ở trên đầu / lẻ loi // Sống một nơi / nhớ một nơi / Suốt đời tìm / suốt đời rơi / để tìm”
(Tìm trăng (9))

Vầng trăng mọc chân cầu cố nhiên là vầng trăng hư ảo. Suốt đời nhà thơ thả rơi chính chiếc bóng hư ảo của mình và bóng dáng hư ảo của cõi sống hiện thực quanh mình xuống mặt sông, để tìm lấy, căn cứ vào đó để sáng tác. Lấy cái ảo để nói về cái thực. Nhờ vậy, thế giới hình tượng sẽ lung linh hơn, đa thanh, đa tầng, đa nghĩa hơn. Tất nhiên, tâm thức nhà thơ không phải là mặt nước vô tri. Tâm thức nhà thơ vốn sâu sắc, nên phản ánh không phải là phản ánh máy móc, mà là phản ánh có chọn lọc, theo kiểu kết tinh hoá.
Và còn phải thẩm định một cách toàn diện, không chỉ về nội dung tư tưởng – hiện thực của tác phẩm mà còn gồm cả hình thức nghệ thuật của tác phẩm. “Phong cách” không chỉ thể hiện ở ngôn từ, mà còn ở kết cấu, đề tài quan tâm, lí tưởng thẩm mĩ… Phong cách văn chương thể hiện ở mọi khía cạnh, mọi mặt của một loạt tác phẩm của một tác giả. “Bút pháp (hay phong cách văn chương), ấy là con người” (style, c’est l’homme)! Một định nghĩa của một tác giả Phương Tây, hầu như ai cũng biết, là một hướng tiếp cận để hiểu rõ hơn vấn đề này.
Ồ, nhưng tại sao tôi phải rườm rà lí giải những vấn đề sơ đẳng như thế, khi đọc thơ? Tôi hiểu, đúng là tôi rườm lời, quá nặng phần luận, phần cảm lại nhẹ quá. Nhưng chính thơ của Nguyễn Tấn Sĩ đã đặt tôi vào chỗ phải “khảo” luận trước khi cảm thụ thơ anh. Chẳng qua, Nguyễn Tấn Sĩ thành thật quá, thật thà quá, hoặc “tự bảo vệ” quá, đến mức dám nói thẳng là thật hay không thật ở thơ mình!

3

Nếu ở tập thơ đầu tay, Mặt trời và cơn khát, cấu trúc chung là gồm hai phần: tình yêu đương và lính giải phóng, thì ở tập thứ hai, Lời hát khẽ, cấu trúc thi phẩm gồm: tình cảm riêng tư (đôi lứa, gia đình, tuổi nhỏ), tâm cảm về cuộc đời (đất nước, lịch sử, thế sự – xã hội hiện tại, kiếp người) và tâm trạng người lính giải phóng giúp nước bạn (thời sang Campuchia).
Tuy vậy, mặc dù Nguyễn Tấn Sĩ không chia phần và đặt tên từng phần trong tập Lời hát khẽ, tôi vẫn thấy rõ: Phần Ia, Xuân (bài 1 – bài 15). Phần Ib, Xanh (bài 16 – bài 28). Phần II, Cõi sống (bài 29 – bài 44). Phần III, Cứu láng giềng (bài 45 – trường ca 55). Tôi không nói bố cục này rất rạch ròi, mà chỉ nói là khá rạch ròi, vì còn có sự linh hoạt đan xen các yếu tố vào nhau trong một tổng thể.
Nguyễn Tấn Sĩ có thể sẽ cáu lên, bảo tôi dám tự tiện, tự thị. Tôi chỉ biết cười, bảo lại anh, hai chữ “Xuân” xà “Xanh” là của chính anh với tần số xuất hiện đến mức chỉ đọc lướt qua là thấy chính anh, chứ không ai khác, đã cố tình lặp lại rất nhiều lần, như một thủ pháp nghệ thuật. Xuân xanh vốn là một từ ghép trong thơ cổ, nhưng anh tách ra, mỗi chữ trở nên không cũ (xuân) và mới hẳn (xanh), nhất là ở từng ngữ cảnh nghệ thuật cụ thể.

Xuân

Xuân, mùa xuân, đôi khi là Tết hoặc tháng giêng, với nhà thơ Nguyễn Tấn Sĩ, đã thật sự trở nên một biểu tượng trữ tình chiếm lĩnh cả tâm hồn anh. Sao anh yêu mùa xuân đến thế? Mùa xuân (mùa tươi đẹp, mùa xinh giòn, mùa nắng mới, mùa hương ngát, mùa hoa thắm, mùa lộc biếc), ai chẳng yêu. Nhưng Nguyễn Tấn Sĩ vẫn là người yêu mùa xuân một cách say đắm, bền lâu, chung thuỷ nhất. Hình tượng cổ điển ấy, được biểu đạt dưới ngọn bút tài hoa, sáng tạo mới ngôn từ theo một hệ thẩm mĩ hiện đại rất riêng, thêm vào đó là cấu trúc ngôn ngữ mới và nhiều thủ pháp nghệ thuật mới (tân thức) rất Nguyễn Tấn Sĩ.
Phải nói là nhìn chung, thơ Nguyễn Tấn Sĩ rất đều tay, không có bài nào quá “lép”, cũng không có bài nào trội hẳn lên. Mức độ chênh lệch về chất lượng giữa các bài, nếu so sánh trong cả hai tập, là không đáng kể. Vì thế, tôi rất phân vân, không định được bài nào là hay nhất của Nguyễn Tấn Sĩ. Nói vậy, tôi đã tính đến tạng chất riêng (thẩm thức, thị hiếu thưởng ngoạn thi ca riêng) của người cảm thụ. Theo tôi, thơ phải đẹp và giàu chất suy tưởng, cũng như thể nàng thơ, phải vừa xinh đẹp, đoan trang, vừa sâu sắc, trí tuệ và dĩ nhiên phải có tình, tình nghĩa thắm thiết. Bức tranh chiều xuân (10) là một bài như thế trong mảng thơ Xuân của Nguyễn Tấn Sĩ.

“Em là bức tranh xuân / Chiều ba mươi lạnh ngắt quán bên đường / Vội vã gió / Vội vã người / Vội vã / Rao bán nỗi buồn Cúc tím / Huệ và tôi // Tôi như trang lịch / Run rẩy đợi tay người / Bức tranh xuân / Nghiệt ngã mím môi cười / Chầm chậm chiều trôi / Lần lữa ba mươi / li rượu / chực tràn // Em và tôi / Tất cả muộn màng / Như là / Nắng rớt / Như là xuân / Rượt đuổi những mùa xuân // Em và tôi / Bức tranh chiều, trang lịch / Bủa lưới mùa xuân mắc cạn giữa đời chiều / Giãy giụa”.

Thơ Nguyễn Tấn Sĩ có nhiều bài đẹp hơn, mới hơn về ngôn từ, nhưng thơ anh đa số đều thể hiện tài hoa của anh, tuy rất ít chiều sâu suy tưởng. Ưu thế của anh là cảm chứ không phải nghĩ. Thơ tình anh chung quy cũng chỉ là những nỗi niềm thương nhớ thường tình. Ngoài ra, có một nỗi đau bị người yêu nào đó xin phép anh để đi lấy chồng, chứ chưa hẳn là phụ rẫy, hay là “phụ rẫy” một cách lịch sự và trí thức. Trong đó, hình như ẩn chứa niềm mặc cảm bản thân của anh là bị thất thế, thua thiệt, gồm cả sự thua thiệt của một người thầy giáo nhiệt tình, quyết tâm chấp nhận hi sinh, tình nguyện gửi lại viên phấn trắng để cầm lấy khẩu súng ra trận. Tuy vậy, anh cũng giấu đi, mượn một hình ảnh cổ điển trong dân ca để thể hiện niềm đau uất nghẹn, chấp nhận, bất cần, cam đành, câm nín một cách cao thượng của mình, ở cả nhạc điệu: “đời bao nhiêu dặm đường dài / ngựa ô khớp bóng trăng, phai bóng mình // về dinh thì cứ về dinh / sóng không động biển lặng thinh một đời” (11). Nỗi đau ấy còn thể hiện ở một tứ thơ rất hay, sự khăng khít không thể chia lìa của câu lục và câu bát trong thể thơ truyền thống này, nhưng trong thực tế đã bị chia lìa, hẳn cũng về người yêu phải vâng lời cha mẹ đi lấy chồng ấy: “ai đưa câu bát sang sông / để cho câu lục khóc ròng ngày xuân […] // ai đưa vó ngựa về dinh […] // một câu, thơ chỉ một câu / một câu ở lại nát nhàu tuổi xuân […] // … một câu ở lại tơi bời…” (12).
Đó là sự cao thượng và nỗi đau của một chiến sĩ bộ đội đang lao vào trận mạc, biết rằng người yêu mình không thể kiên tâm chờ đợi mỏi mòn, không thể không vâng lời cha mẹ… Có lẽ phải hiểu người thơ trong thơ Nguyễn Tấn Sĩ đôi điều như thế, để hiểu anh, hiểu thêm trái tim anh bị tổn thương, sinh ra đa đoan, đa mang, và từ đó, hiểu thêm một bài thơ đã trích nguyên vẹn.
Từ nỗi đa đoan, đa mang do trái tim bị tổn thương, Nguyễn Tấn Sĩ đã nhập thân vào hiện thực với bao nỗi niềm của cuộc đời… Ở Bức tranh chiều xuân, lại là xuân muộn, hai người (em và tôi) như hai thứ hàng ế ẩm chiều cuối năm, cận Tết, chiều ba mươi, chiều ngoài phố vắng ngắt người xe, để tập họp thân thích trong nhà, đón rước tổ tiên về vui Tết theo phong tục. Rao bán, nào ai thèm mua thứ hàng đại hạ giá. Chiều, được nhân hoá, thành kẻ nghiệt ngã mím môi cười. Tôi (hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ) và em (nàng thơ), thân phận chỉ là nắng rớt, là xuân rượt đuổi bao mùa xuân cũ, thậm chí muốn rượt đuổi những mùa xuân mới khỏi cuộc đời này, vì xuân thiên hạ đến, xuân mình thêm đau lòng. Cuối cùng, anh nhận ra tình trạng bi đát nhất: “bủa lưới mùa xuân mắc cạn giữa đời chiều / giãy giụa”. Có một điều khá lạ, là Nguyễn Tấn Sĩ không nói gì thêm về Cúc, Huệ, hai trong nhiều loại hoa thừa, hoa mới cao giá đó đã thành rác, bị vứt bừa bãi dọc lề đường vào chiều ba mươi áp Tết. Anh không nỡ nhẫn tâm chăng?
Ở bài này, một lần nữa, Nguyễn Tấn Sĩ đồng nhất chiều ba mươi với đời ba mươi tuổi, chiều cuối năm với chiều của đời người con gái. Chính đó là thời điểm xuân non sẽ thoắt hoá xuân già của những Cúc, những Huệ!
Bài Bức tranh chiều xuân sở dĩ tạo được ấn tượng ở người đọc là nhờ tình huống bi kịch được thể hiện trong đó.
Nguyễn Tấn Sĩ còn có nhiều bài rất xuân theo cá tính sáng tạo của anh. Tuy nhiên, ở các bài ấy, mặc dù câu chữ đẹp, ý thơ không tầm thường, không sáo mòn, nhưng vẫn dễ bị người đọc lướt qua bởi vẫn còn nhàn nhạt. Nếu tách ra từng bài, hiệu quả tạo được ở người đọc hẳn cao hơn. Khi đứng chung trong tập, hiệu quả ấy giảm thấy rõ. Nói cách khác, thơ Nguyễn Tấn Sĩ vẫn còn thiếu tính độc đáo trong từng tứ thơ, dẫu bài nào cũng khá hay.

Xanh

Đây là phần thơ nói về tuổi nhỏ với những kỉ niệm ở một làng quê, và gồm cả những bài thơ về tình yêu đương được miêu tả theo gam màu một thời xanh của danh hoạ Picasso. Em xanh (13), tên một bài thơ của anh, lại được miêu tả một cách khá độc đáo. Nhà thơ lấy vật thể vốn tự bao giờ trở thành biểu tượng trong trí óc, tình cảm ta là xanh (nói cách khác, nhắc đến nó, ta liên tưởng ngay đến màu xanh), để rồi nhận ra, khi mặt trời tắt, nó đen sẫm, trong khi đó, có vật thể nhờ bóng tối mới sáng xanh lên tuyệt đẹp. Anh viết:

“Biển không xanh / Trời xanh không xanh / Em bay như thế ngủ sao đành / Cháy ngọn lửa của loài đom đóm / Đêm nghiêng mình, rượu gạo lẫn vào em”

Ta chưa hiểu hết tứ thơ, thì đây, xin đọc tiếp: “Giật mình thành phố lênh đênh / Áo em xanh để anh quên lối về”. Phải chăng, đó là nàng thơ trên một chuyến bay đêm?
Có hai bài khác, Nguyễn Tấn Sĩ dùng chỉ một khổ thơ 4 câu làm đoạn kết cho cả hai. Bài Bỏ quên (14) (thuộc mảng Xanh này) và bài Khúc phố (bài chuyển mạch sang phần Cõi sống) cùng được kết:

“Ngày tháng mãi rộng lòng / Em thì chẳng bao giờ rộng lượng / Nên sông suối suốt đời vay mượn / Một chút trời xanh, để xanh”.

Hoá ra, sự thật giản đơn đến thế nhưng ta cứ bị nhầm. Nước sông, nước suối vốn không có màu. Màu xanh ấy là phản quang nhận từ trời xanh. Đó là màu xanh vay mượn. Nguyễn Tấn Sĩ đã đến tuổi không còn có thể gọi là thanh niên (năm xanh) được nữa, cho dù thơ anh vẫn dạt dào như sông, như suối?
Trong một bài thơ khác, ánh trăng tràn ngập, và có cả hôm trăng tắt lịm. Nguyễn Tấn Sĩ không viết ánh trăng xanh hay ánh trăng vàng, nhưng tôi không thể không cam đoan với mọi người rằng, ánh trăng trong bài Người thứ ba (15) phải là ánh trăng xanh. Hỏi, sao dám cả quyết thế? Xin đáp, bởi chỉ có ánh trăng xanh mới huyễn hoặc thế này:

“Bất chợt / Ánh trăng ngọn gió / Người ấy bắt đầu hư ảo lênh đênh / Người tìm nhớ để quên / Người tìm quên để nhớ / Người thứ ba lảng đảng vô hình // Bất chợt ánh trăng ngọn gió / Quần thảo trái tim / Nhuộm lá con đường / Có người bị thương có người lá nhuộm / Người thứ ba thoang thoảng mùi hương // Bất chợt / Có một lần bất chợt / Vầng trăng treo ấn kiếm giữa trời / Mỉm nụ cười nham hiểm / Và ba người / Ngã xuống ở ba nơi / Nếu kể vầng trăng là bốn / Người thứ ba / Bản nhạc không lời”.

Một người bị phân thân trong ánh trăng xanh, được biểu đạt thành hình người và bóng người. Người thứ ba, thật ra, chỉ là người được người ấy (tôi) gọi bằng ngôi thứ hai (em) duy nhất của anh ta. Tưởng chừng cuộc đời cứ mãi huyền ảo trong ánh trăng xanh với niềm thương nhớ (lúc cố quên lại là lúc nhớ nhất, và khi cố nhớ một lần nữa để rồi quên nhưng biết sẽ chẳng bao giờ quên được)! Tưởng chừng cứ đau mãi niềm đau của trái tim bị quần thảo, hành hạ – “có người bị thương, có người lá nhuộm”! Thế rồi, ánh trăng xanh gác kiếm và treo ấn. Tắt lịm. Chỉ còn độc nhất bóng tối khoả tràn. Gục ngã. Tất cả đều gục ngã. “Người thứ ba thoang thoảng mùi hương” yêu dấu kia chỉ còn lại là âm thanh của những nhạc cụ, im vắng tiếng người, nhưng thật ra tiếng người vẫn vang lên trong âm nhạc không lời ấy! Em vẫn tồn tại, cao sang hơn cả mùi hương.
Xanh của Picasso là giai đoạn cổ điển tuyệt vời nhất của ông, hơn cả giai đoạn lập thể sau này. Xanh của Nguyễn Tấn Sĩ không phải cổ điển, mà tân thức, tuy chưa vang xa, vang rộng nhưng đã khiến quê hương Quảng Nam của anh và bạn bè anh khắp nơi trong nước yêu mến.

Cõi sống

Những gì tôi yêu mến ở thơ Nguyễn Tấn Sĩ trên kia, anh không bằng lòng. Anh chỉ thích Hồn quê (16) và Nhớ mùa thu Thanh Tịnh (17). Thôi thì mặc bạn, mặc mình. Tôi cứ thích theo cách của tôi. Có điều này, tôi và Nguyễn Tấn Sĩ lại trùng nhau ý thích ở hai bài thơ trong phần Cõi sống.
Tôi thích Chiều đi qua cổ tháp (18) xuất phát từ chỗ khác với tác giả của nó là Nguyễn Tấn Sĩ. Anh như một Chế Lan Viên, không muốn làm người dưng với tháp Chăm, thấy hối hận vì tâm thức anh một thời cứ như là “li khách” với tháp cổ trên quê hương Đất Quảng, ở gần mà thực sự lìa xa, lạ lẫm với những tháp cổ ấy. Tôi thích vì bài thơ đẹp, có những ý tưởng vốn là sử kí được biểu đạt bằng thơ ca một cách nhuần nhị.

“Tôi như đất sét / chưa thành gạch / Đâu quách thành cho kẻ đốt đền / Vẫn cứ ngu khờ làm li khách / Con đường mộng mị ngõ không tên // Thương nhớ phù điêu chiều say khướt / Vết nứt thời gian vũ điệu Chàm / Lỡ một bàn chân nghìn năm bước / Lá đổ chiều xưa, chiều nay buồn // Mới hay gạch đỏ màu lưu lạc / Thắp chuyện giang hồ mây trắng bay / Để linh hồn đất như là lửa / Tôi và gạch ủ những cơn say // Tôi với tôi với chiều khôn dại / Ai có điêu tàn mới hiểu nhau / Một phút trầm si nên ngậm ngải / Tháp thì đứng lại tôi thì đi // Tháp thì ở đấy, ngày không ở / Quanh quẩn chiều buông nhuộm dấu Chàm / Lưng chừng tháp cổ về ai đó / Hát điệu ơi hời ru tháng năm?”.

Nếu được Nguyễn Tấn Sĩ bằng lòng, tôi sẽ cho in hai chữ bằng kiểu chữ khác với toàn bài và đồng thời viết hoa hai chữ ấy, lại bỏ một chữ và thêm một chữ, để câu thơ không lạc vần mà lại diễn đạt nhiều điều hơn (nhớ tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên [Phan Ngọc Hoan]; cảm chút ngẩn ngơ trong chiều bên tháp cổ quê nhà, vốn được sách địa lí – lịch sử nhà Nguyễn ghi lại địa danh dân gian là Kẻ Chàm, người Pháp phiên âm là Kacciam). Đoạn thơ ấy phải được sao – dán (copy – paste) lại một lần nữa: “Tôi với tôi với chiều khôn dại / Ai có Điêu tàn mới hiểu nhau / Một phút trầm si nên ngậm ngải / Tháp thì đứng lại tôi đi đâu”. Nhưng khó gì mà không tìm ra chữ “đâu”! Hẳn là Nguyễn Tấn Sĩ cố tình lạc vần để biểu đạt bản thân như thể anh đang lạc lõng, lạc loài! Và hai hư từ “thì” trong câu ấy cùng hư từ “thì” thứ ba ở đoạn dưới, nghe thật quá thật thà, mộc mạc đến nao lòng.
Tôi thích Chiều đi qua cổ tháp cũng bởi lẽ tôi đã viết nhiều bài thơ, chương truyện, trang sử về đề tài này (*d).
Trong mảng tôi mạn phép anh đặt tên là Cõi sống, bài Đêm Thuý Kiều (19) là một thành công đáng kể khác của anh. Đó không phải là đêm của thời đại Nguyễn Du (1765 – 1820) và tác phẩm “Tiếng kêu đứt ruột mới” (Đoạn trường tân thanh).
Tôi chú ý đến Đêm Thuý Kiều không chỉ bởi sự táo bạo là Nguyễn Tấn Sĩ dám kéo một thi hào vào đêm-đào-nương, đêm-con-hát với máy móc điện tử cuối thế kỉ thứ XX (karaoke), mà còn vì một “luận đề”, ngày xưa, cách đây khoảng 30 năm, với Nguyễn Tấn Sĩ, là một luận đề nghiêm trọng: linh hồn, theo ý nghĩa siêu hình tôn giáo. Đây là là thơ xưng tội trước Thiên Chúa, sám hối trước Đức Phật chăng? Tôi cũng đã từng băn khoăn, thao thức về nhà thơ – con người nói chung với hai mặt thiện – ác (tốt – xấu), về chức năng của thơ ca: liệu thơ ca có cứu rỗi (cứu độ, thiện hoá) được loài người nếu thơ ca thể hiện được chân lí nghệ thuật muôn đời là chân – thiện – mĩ? Tôi đã viết trong niềm trăn trở ấy:

thơ là nén hương sám hối?
thơ là toà giải tội?
cho người thơ tự cứu rỗi chính mình
cho con người trong sạch lại niềm tin
trước trái tim mỗi người và cõi sống.
TXA.

Văn chương, nghệ thuật có khả năng làm ô nhiễm, thậm chí là đầu độc xã hội. Nhà thơ cũng như các nhà nghệ thuật khác phải tự cứu rỗi chính mình, không thể nhờ vào đấng siêu hình, thần linh, chúa phật nào. Từ đó, họ tạo ra được một không khí văn chương nghệ thuật thật – tốt – đẹp. Chỉ trong không khí văn hoá, văn nghệ lành mạnh, mỗi người trong xã hội mới có điều kiện tốt để tự cứu rỗi chính họ.
Đến bao giờ mới thật sự không còn tiếng nguyện hứa trước nén hương nghi ngút khói trong bao ngôi chùa, hoặc với chuỗi hạt mân côi, trước toà giải tội trong bao thánh đường? Tội lỗi luôn luôn đồng hành với con người mãi mãi đến vô tận…
Nhà thơ cũng là con người, anh ta có thể phạm tội hát ả đào, lả lơi cùng đào nương lắm chứ. Thi sĩ đạo cao đức trọng Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) ngày xưa, nói về tội lỗi ấy mà như không hề xem đấy là tội lỗi, trong một bài thơ khóc bạn thống thiết, sâu lắng nhất, nghiêm trang nhất (Khóc Dương Khuê (*e)):

… Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối reo róc rách lưng đèo
Có khi tầng gác cheo leo
Lúc vui con hát lựa chiều cầm xoang
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân!...

Xin mạn phép cụ Tam nguyên Yên Đổ, tôi chép lại lần nữa: “Có khi tầng gác cheo leo/ Lúc vui con hát lựa chiều cầm xoang!...”.
Nhưng, từ thời Đồng Khánh (9. 1885 – 1888) đến thời Bảo Đại (1926, 1932 – 1945), nhất là sau vài ba năm phong trào Cần vương bùng nổ mạnh mẽ rồi bị dập tắt dần, ấy là thời đoạn đảo điên của xã hội Việt Nam; trong đó sĩ phu, quan lại tại chức dưới ách thực dân, hay như cụ Nguyễn Khuyến, đầu hàng sớm, thua non giặc Pháp (1884) (*g), cáo quan về ở ẩn, hầu hết đều tiêu dao, hành lạc, cười mình và cười đời, còn nói làm gì!
Còn đây, bản tự phê và phê bình của Nguyễn Tấn Sĩ:

“Đêm Thuý Kiều / em bày vẽ cuộc vui / anh bày vẽ cuộc buồn li rượu đắng // Nếu cầm được linh hồn ra phơi nắng / em chẳng còn vui / anh chẳng còn buồn // Đêm không tên/ hồ dễ mấy ai quên / Nào Mã, nào Kim, này Lan, này Cúc / Này Thúc Sinh tàn đêm cạy cục / đời muốn buồn âm nhạc bị đòn oan // Hát đi em! Kim trỗi giọng thính phòng / Mã rối rít năm ba bài nhạc sến / Bác Nguyễn Du chạnh lòng tắt nến / Quờ đôi tay… / Anh bắt gặp tay mình // Quờ đôi tay đời anh bắt gặp chúng sinh / gặp bóng tối che nụ cười trơ tráo / Chưa qua “tam bách dư niên hậu” / thập loại bây giờ như hoá điên // Đêm Thuý Kiều ai bảo chẳng linh thiêng / đêm chếnh choáng Đạm Tiên đành bỏ cuộc / đêm tính sổ đỏ lừ tàn thuốc / Có một dòng sông đành cạn nước, sông Tiền”.

Sông Tiền Đường bây giờ không còn là nơi thanh tẩy cho Kiều đổi kiếp, trở lại làm người lương thiện nữa!
Liệu sự hiện hữu có thật của linh hồn, giả định theo thần học, có cứu rỗi được con người? Thực trạng sa đoạ, suy đồi về lĩnh vực này ở các quốc gia Thiên Chúa giáo, từ cổ đến kim, từ Tây sang Đông, nhất là thời hiện đại, không chứng minh điều đó.
Liệu Đêm Thuý Kiều có phải là một bài thơ tự vấn mình và nêu vấn nạn về đời với tất cả niềm thành khẩn? Tôi thấy Nguyễn Tấn Sĩ tài hoa, rất tài hoa ở phương thức sáng tác trữ tình tự phê và phê phán với nhiều từ ngữ sắc bén. Ở bài Khúc phố (14), anh bảo đó là “sự trải nghiệm”, là “niềm vui hắc ín”, và anh biết rõ như một nhà khoa học hình sự, “bánh xe qua điểm chỉ ngày hè”, nhưng ở đoạn kết trùng lặp y nguyên như ở bài Bỏ quên (14) là cả một ý thức… đáng phàn nàn (vay mượn một chút xanh… của trời xanh ở những quán cà phê “trải nghiệm”!). Nhưng dẫu sao, nhà thơ cũng chỉ là con người với hằng số chung: dục vọng song hành tồn tại với điểm trực vô thức – hữu thức của thiên lương. Nhà giáo cũng thế chăng? Không ảo tưởng về con người, tôi vẫn tin rằng, có thật nhiều tấm gương không tì vết! Tất nhiên giới nhà giáo trên khắp hành tinh này cũng chỉ là con người, có điều, hơn những con người tầm thường khác là biết sám hối, biết ăn năn tội, biết tự phê và phê bình, để sáng lên tấm gương mẫu mực (mô phạm) về sự chiến đấu và chiến thắng dục vọng thấp hèn? Đấy là điều các nhà đạo đức học gọi là tính người ở con người, thiên chức giáo dục ở nhà giáo; nhà lí luận văn học gọi là tính hiện thực chân thật nhưng là sự thật được nhìn nhận, thẩm định, phản ánh dưới ánh sáng của thiện năng và mĩ học ở nhà thơ và ở các nhà văn học nghệ thuật khác.
Đêm Thuý Kiều là một tiêu biểu của sự gắn bó hữu cơ, biện chứng của thật – tốt – đẹp? Hi vọng và hi vọng vậy thay…
Phần Cõi sống của Nguyễn Tấn Sĩ không chỉ có thế. Suy tư, cảm xúc của anh hướng về nhiều sự vật, con người khác trong đời sống chung quanh, trong chiều dài thời gian, và đã được thể hiện một cách rất thơ ca. Đó là vùng đất mũi Cà Mau, là phế tích Phật viện Đồng Dương và Tháp Lạn, là suối Tiên và huyện Giằng trên đất Quảng Nam, là người thầy (cũng là người anh, người bạn). Đó là cuộc thi hoa hậu, là nghĩa địa – cái chết…

Cứu láng giềng

Lẽ ra, phải viết cho đầy đủ là Cứu nước láng giềng, nhưng tôi muốn dùng chỉ ba chữ ấy để gần gũi hơn, đậm thêm tình hữu nghị với Campuchia.
Nguyễn Tấn Sĩ trải qua đến gần mười năm tuổi trẻ trong bộ đội, hầu hết thời gian tại ngũ là ở trên đất nước bạn, đất nước của Nụ cười Ăng-co (Angkor Thom, Angkor Vat). Với bẩm tính thi sĩ, trong tình yêu đương, anh đã trải nghiệm bằng cả trái tim; trong cõi đời chung quanh, anh trải nghiệm bằng tất cả tâm hồn, tất cả ý thức (ý thức hoà hợp, hoặc ý thức phê phán); trên nước láng giềng Campuchia, chiến đấu vì sự an lành của đồng bào dọc biên giới Tây Nam, vì mục tiêu đánh bại cái ác diệt chủng Pôn-pốt – I-iêng Xa-ry (Polpot – Ieng Sary), anh trải nghiệm bằng tất cả sự dũng cảm, ý chí, nghị lực và bằng tất cả lương tâm con người.
Về những trải nghiệm với ý thức nghĩa vụ trên đất nước láng giềng Campuchia, Nguyễn Tấn Sĩ đã viết ít ra là 10 bài thơ và một trường ca thơ (gồm 8 khúc (20)). Đó là những bài thơ anh viết ngay tại mặt trận, nhưng cũng gồm cả những bài được viết sau khi anh xuất ngũ, về lại Quảng Nam quê hương, cầm lại viên phấn trắng trước bảng đen, cầm lại cây bút đỏ trước bao trang vở trắng học trò. Ngoài ra, cũng có đôi bài anh cảm nghĩ về cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ. Ở những bài viết về Campuchia, lạ một điều là anh ít nhắc đến súng đạn, gươm dao, mặc dù không thể không nhắc đến chúng. Tôi là người chưa từng mang súng, cầm gươm bao giờ, nhưng hình như tôi cảm tình với khẩu súng, kể cả họng súng và viên đạn, nhưng rất ớn lạnh khi nhìn lưỡi lê hoặc dao găm. Mức sát thương của lưỡi lê đâu có bao nhiêu, so với súng đạn! Biết vậy, nhưng hình ảnh lưỡi lê máu me vẫn gây cảm giác rợn người cao hơn. Vốn rất yêu mến câu thơ “đầu súng trăng treo” trong bài Đồng chí của Chính Hữu, tôi lại thấy không thú vị gì, thậm chí hơi rờn rợn về hình ảnh “chiều mỉm cười trên đầu lưỡi lê” trong bài Thao thức trăng suông (21) của Nguyễn Tấn Sĩ, mặc dù anh bảo tôi, đó là một bài nhiều người khen hay, cảm động. Vâng, đó là một bài rất cảm động, nhưng có mỗi một câu thơ ấy là tôi thấy … không ổn!
Ít nhắc đến súng đạn, gươm dao, mà thường suy tư, liên cảm về các di tích lịch sử – văn hoá Kh’mer, chừng như anh chàng nhà thơ Nguyễn Tấn Sĩ này luôn xác định cho chính mình và trước mọi người, anh chiến đấu chống bọn diệt chủng Kh’mer Đỏ là vì sứ mệnh bảo vệ văn hoá, văn hoá không chỉ là các di tích, mà văn hoá ở từng người dân Campuchia cụ thể. Và hơn thế nữa, mãi đến năm 2003, khi xuất bản tập Lời hát khẽ, anh trang trọng đề từ ngay ở trang đầu tập:

“… Tôi đã ngủ đâu
trời cơ man giông bão
đời cơ man tiếng thét gọi không lời
Nuôi kỉ niệm màu xanh rừng trên áo
tôi sống ở trong đời
người lính sống trong tôi…”

Tôi càng quý mến Nguyễn Tấn Sĩ khi đọc Trò chuyện cùng tượng đá. Đây là một bài thơ được cấu trúc với 3 phân đoạn, mỗi phân đoạn có tiêu đề riêng, do đó người đọc có thể tập trung cảm nhận của mình vào từng phân đoạn một, không bị chiều dài của bài thơ làm lan man. Có một điều, tôi thích bản cũ trong tập Mặt trời và cơn khát hơn. Nhưng bản cũ chỉ gồm 2 đoạn. Tôi đành mạn phép Nguyễn Tấn Sĩ để làm một sự lắp ghép (22).

“ĐÁ // cười chi đá ơi / bóng thời gian mưa nắng / đi qua cay đắng / đi trong câm lặng / đá cười / Bay-on, tôi chưa hiểu hết Người / khi chưa hiểu đá / những ngọn lửa chiến tranh nghiệt ngã / thịt xương tơi tả / đá cười? / Bay-on, thà Người nói bằng lời / như giọt thốt nốt ban mai ngọt nửa chiều men đắng / nhưng đá hỡi cứ hoài nín lặng / điệu múa quanh Người bí ẩn cả đôi tay // NGƯỜI // Bay-on, tôi có người mẹ khô gầy / bồng con đợi ngàn năm / nụ cười hoa trái mọc / nước mắt rơi suối nguồn tuôn / vô tận nỗi buồn / thành đá // Bay-on, Người như quen như lạ / năm tháng binh đao gởi lại nụ cười / Bay-on, tôi không đến đây để làm người chiêm ngưỡng / bao triều đại đi qua / nụ cười còn mãi… // NỤ CƯỜI // tôi chỉ là người lính thôi / đang rượt đuổi tận cùng cái ác / chặn bàn tay hoả thiêu tiếng hát / bàn tay chôn nụ cười / và Bay-on, tôi đã gặp người / trước khi gặp đá / có em bé Khơ-me đói lả / có người mẹ tìm con vừa gục xuống đêm qua / hạt gạo tôi mang từ khó nhọc mẹ già / kịp nhỏ xuống bờ môi khô giọt cháo / và tôi gặp đôi môi Bay-on trong nụ cười tái tạo / bàn tay xưa trên mạch đá lần tìm…”.

Chính hai dòng thơ, “Bay-on, tôi chưa hiểu hết Người / khi chưa hiểu đá”, là cái mốc Nguyễn Tấn Sĩ dựng lên trong mạch cảm nhận của người đọc, để từ cái mốc ấy, ta cùng anh liên cảm đến người mẹ già ở quê hương và hình tượng Mẹ Bồng Con (23), tên một ngọn đèo ở dải đất Miền Trung. Đó là hình tượng của người phụ nữ Việt Nam nhẫn nại, kiên tâm, chung thuỷ, người phụ nữ của một đất nước luôn phải đứng trước thách thức sống còn, phải tiến hành những cuộc chiến tranh chống xâm lược từ mọi phía, suốt bốn nghìn năm lịch sử. Mặc dù anh không nhắc đến tên ngọn đèo này, nhưng hòn vọng phu Mẹ Bồng Con không thể là một hình tượng khác trong tâm thức anh, khi Nguyễn Tấn Sĩ viết: “Bay-on, tôi có người mẹ khô gầy / bồng con đợi ngàn năm / nụ cười hoa trái mọc / nước mắt rơi suối nguồn tuôn / vô tận nỗi buồn / thành đá // Bay-on, Người như quen như lạ / năm tháng binh đao gởi lại nụ cười”. Nguyễn Tấn Sĩ hiểu chất đá, thực ra là bản chất của hình tượng Nụ cười Bay-on của Campuchia, bằng cái hiểu của một người Việt Nam, có quê hương là Tam Kỳ, thị xã tỉnh lị của Quảng Nam, vốn ở ngay chính giữa đường sắt thống nhất xuyên Việt. Khi đã hiểu chất đá đó, hiểu theo tâm thức riêng của anh, anh cho rằng anh đã hiểu Nụ cười Bay-on. Tôi muốn nhấn mạnh sáu chữ được chia làm hai dòng này: “vô tận nỗi buồn / thành đá”, như đã mạn phép nhấn mạnh hai dòng trên kia, tôi xem là cái mốc trong mạch cảm xúc, suy tưởng của Nguyễn Tấn Sĩ.
Không ai trách Nguyễn Tấn Sĩ cố tình chủ quan khi hiểu Nụ cười Bay-on như vậy. Có lẽ anh không quan tâm lắm đến Phật học? Không quan tâm đến Phật học với nụ cười Đức Phật Thích Ca, làm sao anh hiểu nổi Nụ cười Bay-on? Nhưng hỏi thế là tôi đùa với anh đó thôi. Hình tượng Jésus Christ buồn bã cúi xuống, giang hai cánh tay với hai bàn tay ngửa ra như ban phát, như đón chờ, như phân trần, hoặc ngước nhìn lên Trời cao (Jéhova) với ánh mắt tôn thờ, ngóng trông, cam chịu, có lẽ Nguyễn Tấn Sĩ hiểu sâu sắc. Cũng có thể Nguyễn Tấn Sĩ có bề sâu hơn khi ngẫm nghĩ về Nụ cười La Joconde của Léonard de Vinci. Nhưng rốt cuộc, Nguyễn Tấn Sĩ vẫn giũ bỏ, lãng quên hết tất cả mọi thứ triết lí, triết học, tôn giáo, chỉ lấy hình tượng Mẹ Bồng Con chờ chồng đi đánh giặc ngoại xâm trở về đoàn tụ trong độc lập, tự do của Việt Nam để hiểu Nụ cười Bay-on!
Nhà thơ cho phép mình chủ quan một cách đầy sáng tạo như vậy. Nhưng cũng vì mang bản tính thi sĩ, anh quên đi một vài câu cước chú cần thiết.
Về hai tập thơ của Nguyễn Tấn Sĩ, tôi đã cố gắng cảm nhận trong chừng mức có thể. Cũng như thơ của nhiều nhà thơ danh tiếng khác, số lượng bài hoàn chỉnh tuyệt đối của Nguyễn Tấn Sĩ hầu như rất hiếm, nhưng vẫn còn nhiều câu thơ hay, tứ thơ đẹp trong hai tập thơ ấy, bên cạnh nhiều câu, nhiều bài chưa thể gọi là hay, mặc dù tất nhiên là không thể bảo là dở hoặc trung bình. Tuy vậy, làm sao tôi có thể trình bày hết trên trang giấy tất cả những gì tôi đã cảm nhận về cái hay, cái đẹp trong thơ anh. Có một điều tôi thấy cần khẳng định lại: Trong các bạn thơ quen biết, thân tình, Nguyễn Tấn Sĩ là một trong vài nhà thơ có phong cách rất riêng về ngôn từ thơ, mặc dù ngôn từ thơ là một mặt cực kì quan trọng, nhưng chưa phải là tất cả đối với thi ca.
Tôi thấy bài viết cũng không cần phải tổng kết…
Tôi đoán rằng, Nguyễn Tấn Sĩ rất sợ “tổng kết” về thơ ca của mình, vì như thế rất “tổn thọ” cho một đời thơ đầy sáng tạo, còn mãi khát vọng và năng lượng sáng tạo như anh. Nguyễn Tấn Sĩ vẫn còn nhiều tập thơ chưa xuất bản, và nhất là còn nhiều tập thơ khác trong trái tim anh.

TP. HCM., khởi viết từ 14 giờ 12 phút, ngày 03. 10. HB4 (20. 8 G. thân HB4);
viết xong vào lúc 11 giờ 12 phút ngày 05. 10. HB4 (22. 8. G. thân, HB4).
TRẦN XUÂN AN


(*a) Xin xem thêm: Trần Xuân An, Giữa vòng tay Tam Kỳ và bè bạn, bút kí, Kỉ yếu 40 năm (1955 – 1995) thành lập Trường Trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ, Quảng Nam – Đà Nẵng, 1995, tr. 58 – 70. Trong bút kí này, nhân vật S. là Nguyễn Tấn Sĩ.
(1) Nguyễn Tấn Sĩ (Sỹ), Mặt trời và cơn khát (MT. & CK.), tập thơ, Hội Văn học – nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng xuất bản, 1991; & Lời hát khẽ (LHK.), tập thơ, Hội Văn nghệ Quảng Nam xuất bản, 2003.
(*b) Chữ đầu dòng thơ viết hoa hay không, tôi giữ nguyên theo văn bản của tác giả. Xét về ngữ pháp, viết hoa chữ đầu dòng thơ hay không, đều sai. Đây chỉ là cách trình bày bài thơ trên giấy cho đẹp, tuỳ theo mỗi tác giả.
(2) MT. & CK., sđd., tr. 9.
(3) Đọc Trò chơi của Bônđarep, MT. & CK., sđd., tr. 23.
(4) Không đề, MT. & CK., sđd., tr. 5.
(5) MT. & CK., sđd., tr. 12 – 13.
(6) MT. & CK., sđd., tr. 14.
(7) MT. & CK., sđd., tr. 17 – 18.
(8) MT. & CK., sđd., tr. 21 – 22.
(*c) Điểm trực tự động, có tính phản xạ của thiên lương có chức năng “kiểm duyệt” ấy, gọi tắt là điểm trực thiên lương (phần được giáo hoá bằng văn hoá, giáo dục, trở thành bản năng cao đẹp, có sức đề kháng tự giác kiểu phản xạ, phản ứng trước cái xấu, cái ác trong mỗi con người, trong xã hội) được Phật học gọi là a lại gia thức, được Sigmund Freud gọi là le sur-moi (siêu ngã). Tôi không muốn dùng nhóm thuật ngữ cùng hệ thống khái niệm của S. Freud, bởi có nhiều kẻ đã vận dụng chúng với mưu toan diễn dịch, xuyên tạc (giải mã các hình ảnh được mã hoá, do bị siêu ngã kiểm duyệt!), với mục đích quy về libido (ẩn ức tình dục).
(9) LHK., sđd., tr. 40.
(10) LHK., sđd., tr. 25 – 26.
(11) MT. & CK., sđd., tr. 7.
(12) LHK., sđd., tr. 19 – 20. Theo quan niệm dân gian về hồn vía, người nam có 03 hồn 07 vía, tương ứng với câu lục; người nữ có 03 hồn 09 vía, tương ứng với câu bát.
Trên đây, tôi chỉ phân tích theo hình tượng thơ trong 02 tập thơ của anh. Trong thực tế ngoài đời, tôi được biết Nguyễn Tấn Sĩ cũng có một người yêu xin phép anh để đi lấy chồng như vậy. Đó là một cô giáo, giảng viên trường cao đẳng, rất xinh đẹp, trí thức, chủ động biến tình yêu đương thành tình bạn. Tôi cũng được biết rằng, suốt hơn 20 năm nay, Nguyễn Tấn Sĩ đã chung sống hạnh phúc với một người vợ xinh đẹp, đảm đang, đức hạnh.
(13) LHK., sđd., tr. 37.
(14) LHK., sđd., tr. 33 & tr. 56. Nguyễn Tấn Sĩ điện thoại cho tôi biết rằng, đoạn kết này chỉ thuộc bài Khúc phố. Anh thấy cũng không cần phải đính chính lỗi in ấn này.
(15) LHK., sđd., tr. 43 – 44.
(16) LHK., sđd., tr. 45 – 46.
(17) LHK., sđd., bài Nhớ mùa thu Thanh Tịnh, tr. 51. Lẽ ra, bài này Nguyễn Tấn Sĩ phải chú thích cho đầy đủ: Bài Tôi đi học, Anatole France (1844 – 1924), nhà văn Pháp, là tác giả. Thanh Tịnh chỉ là dịch giả tài hoa. Thiết tưởng, ta cũng cần nhớ nhà văn Pháp ấy, người đã dùng ngọn bút của mình để vạch trần chủ nghĩa thực dân Pháp tại Việt Nam.
(18) LHK., sđd., tr. 75 – 76.
(*d) Trần Xuân An, Nước mắt có vị ngọt (tập truyện liên hoàn, 1999); Suy nghĩ về lịch sử cổ đại nước ta (khảo luận sử học, 2004).
(19) LHK., sđd., tr. 71 – 72.
(*e) Dương Khuê (1839 – 1902).
(*g) Thơ Nguyễn Khuyến: “… Cờ đang dở cuộc, không còn nước / Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng / Mở miệng nói ra, gàn bát sách / Mềm môi chén mãi, tít cung thang / Nghĩ mình mà gớm cho mình nhỉ / Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”.
(20) Như đã nói, đây là phần thơ đã in ở tập MT. & CK., lại được tác giả Nguyễn Tấn Sĩ chọn lọc, bổ sung, sửa chữa, in lại ở tập LHK.
(21) LHK., sđd., tr. 3.
(22) MT. & CK., sđd., tr. 35 – 36; LHK., sđd., tr. 92 – 94.
(23) Ở đây, chắc chắn Nguyễn Tấn Sĩ không nói đến nàng Tô Thị, vốn là một hình tượng cổ tích mang ý nghĩa giáo dục luân lí. Anh đã có một bài khác viết về Tô Thị. Xem: LHK., sđd., bài Nàng mới ra đi, tr. 69 – 70.


Đã gửi: Ngày 06. 10. 2004

1. Nguyễn Tấn Sĩ
2. Tạp chí Đất Quảng.



XIN XEM TIẾP PHẦN II

0 Comments:

Post a Comment

<< Home